Được sự cho phép của UBND Quận Phú Nhuận /TP.HCM. Được sự giúp đỡ của Hội Đông Y Quận Phú Nhuận, Trung Tâm Văn Hóa Thể Dục Thể Thao Quận, Nhà Thi Đấu Rạch Miễu và Câu Lạc Bộ KCDS của Quận. Tối nay lúc 20 giờ ngày 16/8/2010, tại Nhà Thi Đấu Rạch Miễu TP.HCM lớp KCDS từ thiện đã được khai mạc.
May quá, Sài Gòn độ này trời đã bắt đầu vào mùa mưa. Nhưng bà con được tập trong Nhà Thi Đấu thì an tâm rồi. Tuy trời mưa, nhưng ngay hôm đầu tiên, chỉ truyền miệng nhau, thế mà bà con đã đến tham gia dự tập rất đông. Nhà Thi đấu Rạch Miễu rất hiện đại, to là thế mà bà con ngồi chật cả hội trường. Dự kiến ước chừng phải trên 500 người. Tuy đông nhưng do Ban Tổ Chức đã có nhiều kinh nghiệm và bà con rất tự giác nên lớp học rất trật tự. Sau buổi khai mạc ngắn gọn, Thầy bắt đầu thuyết trình về phương pháp trên màn hình và bắt đầu phát công ngay.
Hôm đầu tiên số lượng người đắc khí ước chừng đã trên 70%. Lớp học tuy đông và số lượng đắc khi nhiều, nhưng vẫn giữ được tính Thiền. Lúc nào cũng trang nghiêm, thanh tịnh, an lạc và tràn đầy nhận biết.
Cuối buổi tập lúc ra về, bà con ai nấy đều phấn khởi. Bàn tán xôn xao về tác dụng kỳ diệu và lạ lùng của Khí. Tuy là hôm đầu tiên nhưng nhiều người đã tự chuyển động được bằng nội lực, thấy ánh sáng, ngửi được hương thơm, toàn thân như có muôn ngàn mũi kim châm nhẹ vào da thịt, hơi thở thông suốt, nhịp tim êm dịu, giải tỏa stress qua giấc ngủ Khí Công, thấy cơ thể cực kỳ sảng khoái. .. . . . Chắc tối mai lớp sẽ lại đông hơn. . . .
Nhìn lớp KCDS này cũng như rất nhiều lớp KCDS khác, trên 20 năm qua đã triển khai trên khắp mọi miền đất nước. Bao giờ bà con mình cũng tham gia tập rất đông vì phương pháp đã đem lại hiệu quả về sức khỏe và việc tự điều trị bệnh. Hình thành nên một phong cách sống có Thiền vị: sống vui, sống khỏe, sống có ích, thanh tịnh, an lạc và tràn đầy nhận biết. Hình thành nên một thói quen sống tuân thủ luật pháp, hòa hợp, đồng cảm, đùm bọc và thương yêu nhau. Nên tôi nghĩ chắc rồi đây, dần dần pháp môn KCDS nhất định sẽ trở thành một môn thể dục thể thao quần chúng rất phổ biến và mang đậm bản sắc của dân tộc. Và tập KCDS hàng ngày sẽ trở thành thói quen Dưỡng Sinh tốt cho mọi người Việt Nam ở mọi lứa tuổi.
Hề hề. . .Bà con phải để ý mấy điều sau:
- Khi dùng Khí trị bệnh, thì ban đầu dùng Tịnh Công sau đó dùng Động Công. Nghĩa là:
- Nếu bà con có biểu hiện giải tỏa stress. Nghĩa là tự nhiên muốn khóc, muốn cười. . .v.v. . . . .Thì bà con không sợ. Giải tỏa stress sẽ làm bà con an thần, giảm căng thẳng não, ổn định các rối loạn chức năng. Tuy nhiên bà con phải biết cách nếu không sẽ gây ra stress mới. Cách làm như sau:
- Còn khi tập Dịch Cân Kinh thì bà con phải để ý mấy điểm sau:
Uống Trà ngày mưa
- Gàn ơi, trà cũ rồi thay ấm mới đi. . . .
- Có ngay. . . .có ngay. . . .
Trời mưa lâm râm, hoàng lan rũ ngọn, cỏ non ẩm ướt. Gió từ sông Sài Gòn thổi vào lồng lộng. Mấy con chim sẻ nép mình vào bờ tường tránh mưa. Ông già dịch vào trong để chúng tiến vào và vứt cho chúng cái bánh qui. . . .Chúng ríu ra ríu rít, một già một trẻ cười khà khà. . . .còn ngoài trời thì mưa và gió đang múa hát. . . .
- Này Ba Gàn. Rốt ráo, hết thảy các pháp là không, vô sinh và siêu việt nhân quả. Vì chưa gặp cái tâm Vô, đang ôm cái tâm hữu tâm, nên mới phương tiện nói về sinh tử, nên mới quyền nói về đắc khí và dùng khí trị bệnh.
Hề hề. . .giác ngộ đối đãi với tham dục và niết bàn đối đãi với sinh tử. Tất cả danh tự ấy đều là pháp nhân duyên. Khi ngồi nơi tâm Vô, thì không còn tham dục hay giác ngộ, sinh tử hay niết bàn, huống hồ là đắc khí và trị bệnh bằng khí. . .hề hề. .
- Vậy sao thực tế vẫn có hiện tượng đắc khí và động tác trị bệnh bằng Khí và có người lành bệnh?
- Này chú Ba, tâm Vô tạo tác ngang qua tâm thức của ta, khiến cho nó thấu hiểu chân tính của thực tại; nó có cái tự nhiên biết và là chủ của 3 thân, nên có công năng tự tại. Nhìn mây bay trên trời hãy cảm nhận cái đẹp chứ đừng nắm bắt hình dáng của mây. Nghiên cứu và thực hành KCDS thì cũng vậy.
Đắc khí là tự Không mà thành Có rồi tự Có thoạt biến thành Không. Động tác khi tập KCDS là có hành động làm mà không có người làm, không có chủ thể của hành động làm này. Không uống thuốc, không châm cứu mà vẫn lành bệnh, là để chứng tỏ Con Người Thật không hề ốm đau sinh tử. . . .
Này chú Ba, ngắm trăng dưới nước hãy cảm nhận cái đẹp để uống Trà ngon hơn, ngồi với bạn tâm giao thú vị hơn, chứ đừng cố vớt mặt trăng dưới nước. Nghiên cứu và thực hành KCDS thì cũng vậy.
- Vậy, phải tự tu tập như thế nào với tâm tương đối của chúng ta ?
- Chỉ cần chứng ngộ tâm Vô trong tất cả các pháp, trong tất cả các hành vi. Thế thì Thành Bại, Có Không, Vinh Nhục, Đúng Sai sẽ như hương trà thơm ngát giữa ngày đông. . . .hề hề. . . .
- Thế sao cụ vẫn hàng ngày giảng dạy và thị phạm KCDS ?
- Hề hề. . .ta đang vẽ trăng dưới nước và hốt mây trên trời để làm vui đấy mà. . . .
Bể cá cảnh này từ đâu mà ra ?
Bãi cỏ ven sông ngập nước. Xà lan chở cát trên sông Sài Gòn kéo còi dài lê thê. Lục bình dập dềnh buông xuôi trên dòng sông lấp lánh ánh ban mai. Bìm bịp kêu trong đám dừa nước ven sông.
Ông Mập đang ngồi chơi với con Mực. Một con chuồn chuồn ớt đỏ như máu đang chập chờn định đậu vào mũi con chó đang ngủ. Con chó khó chịu đưa chân quạt lia quạt lịa. Ông Mập cười yên lặng, đưa một ngón tay ra. Con chuồn chuồn liền đậu trên đầu ngón tay ông, rồi đưa chân vuốt mặt, xũ cánh mơ màng. . .
Hề hề. . . .Ông Già đang lơ đãng nhìn dòng sông trôi thì Ba Gàn đến. Hắn ngồi xuống uống trà, rồi không nhìn ông già mà hỏi. Ông Mập cũng không nhìn hắn mà vẫn cứ trả lời đều đều trong tiếng sóng vỗ vào ghềnh đá buồn thiu:
- Thưa cụ bản chất của Đắc Khí là gì?
- Tạm gọi là Đắc chứ không có hành động Đắc. Bởi Khí là bản thể. Đã ngồi trong nước sao còn gào khát cổ xin ly nước, thế chẳng đáng nực cười sao?
- Bản thể thì không hình tướng, sao khi đắc khí lại có chuyển động và các biểu thị ?
- Như nước lấy hình dạng vật đựng, mà không chấp hình dạng nào là cố định. Nên gọi là "Vô tướng".
- Thế sao còn có việc tập KCDS ?
- Tạm gọi là tập chứ không có hành động tập nên gọi là "Vô tác".
- Nếu Khí là Bản Thể thì ai cũng có chứ sao cần phải tập?
- Ai này cũng là Khí
- Thế sao cụ còn hướng dẫn tập KCDS ?
- Con cá đang tập bơi . . .hề hề. . . .vì nó bị nhốt trong bể cá cảnh lâu năm quá nên không quen với sông hồ và biển cả mênh mông.
- Bể cá cảnh này từ đâu mà ra ?
- Do con cá làm ra . . .hề hề. . .
- Rốt cuộc thế nào là bản chất của việc tập KCDS ?
- Không phân biệt lúc tập và lúc không tập. Mọi biểu thị trong cuộc sống đều là biểu thị của KCDS, nghĩa là thuận tự nhiên như nó vốn phải vậy.
- Ý nghĩa của cuộc sống này là gì?
- Ngay chính cuộc sống này . . .hề hề. . . .
- Sao đằng ấy biết gáy thế?
- Không biết, sinh ra thì đã vậy.
Cu Tý hỏi ông Mập:
- Sao ông biết pháp môn KCDS thế
- Ta cũng như con Cu Gáy vậy . . .hề. . hề. . . .
Bài ca dưới ánh mặt trời
Vậy KCDS có nghĩa là: Không, Vô tướng, Vô tác và Vô Niệm.
Bởi Không cho nên : Không nhằm hình thành giáo phái, không thu học phí, không tổ chức quần chúng, không giữ bản quyền phương pháp, không trụ xứ ở một nơi nhất định nào, mà nhàn du trong nhân gian, không có người phát công và kẻ thụ công, không xác lập một điều gì mà tùy duyên hiển tướng. . .v.v. . .Ở nơi cái thường của Khí mà tùy duyên thích ứng an lạc với vô thường của cuộc đời. Biết rằng có bệnh giả nên có chữa giả, có tạm thời quên nên có tu phương tiện. Biết huyễn ảo (maya) nhưng vui với cuộc huyễn ảo này mà không chấp.
Bởi Vô Tướng cho nên: Tướng nào cũng tùy thuận. Như con ong hút mật hoa mà không làm hư cái hoa đi. Rong chơi khắp nhân gian, tu và chơi, chơi và tu mà không phân biệt, Thu góp mà không chất chứa tinh hoa của cuộc sống, để tạo thành mật ngọt cho cuộc đời này. Thế thì hoa nào cũng ghé qua, chỗ nào cũng bay đến, hòa hợp đồng nhất với pháp giới. Thành giọt nước rót vào lòng biển cả mênh mông của tình nhân ái, chớ không ngã mạn biến phương pháp thành vết dầu loang trên mặt đại dương của Tánh.
- Này, nếu đã là Tánh Không thì giữa "nội khí" của người niệm"Tôi đang nhận khí đây" với Khí Bản Nhiên có sự khác biệt nào chăng?
- Không khác biệt giữa hai bên. Thậm chí không khác biệt với chính người đang niệm.
- Nếu không có sự khác biệt tại sao có niệm để Đắc Khí?
- Niệm là Dụng của Khí và Khí là Thể của các biểu thị và động tác tự hành.
Bởi vậy Vô Tác chính là yếu chỉ của KCDS. Cho nên khi chứng Tánh Không thì tất cả các sự thấy, nghe, nghĩ, biết và chuyển động khi thực hành KCDS, mãi mãi vẫn là tịch tỉnh không hư.
Này, như con chim chích chòe kia, mặt trời vừa lên, ánh sáng ban mai làm nó hưng phấn cất lên tiếng hót. Ta cũng vậy dưới ánh sáng của mặt trời huệ, ta cũng hát bài ca KCDS trên khắp mọi miền đất nước. Ta không có ý muốn riêng, ta không có ý định riêng, ta không có suy nghĩ riêng, ta chỉ như cái gương tròn và sáng sẵn sàng phản ảnh thế gian, thiên đường và địa ngục.
Mọi sự chính là Khí, nhưng Khí không chỉ là mọi sự mà còn là cái chưa hình thành nên mọi sự.
Ha ha. . . .ha. . . .tất cả những cái phản ảnh chỉ là bóng trong giương, cái thực là ở chỗ khác, không thể nói năng, bày biểu, chỉ vẽ hay thấy biết được. . . .
Nói chuyện với người trong gương
- Hề hề. . .Này Ông Mập, làm sao để thường trụ khí ?
- Vô sở trụ
- Người xưa đã dạy: "Phàm Thánh tình tận, thể lộ chân tình, sự lý bất nhị tất như như Phật."Thế thì có phải người tập KCDS chỉ cần trừ bỏ vọng tưởng vọng niệm thì khế hợp Chân Tâm hay thường trụ Khí. Tâm ấy là bất sinh khi đối trần cảnh?
- Đối KCDS, tâm cũng bất sinh.
- Bất sinh thì làm sao hoạt dụng ?
- Phản ảnh
- Thế nếu mình và Khí hợp nhất thì thế nào?
- Này Cỏ May, khi Khí hợp nhất với Thân Không và Tâm Không thì tự nhiên luôn hoạt dụng thích ứng tình huống và như vậy sẽ khinh an trong dòng biến dịch của sự sự vật vật.Thế nhưng con người thật của ông thì phải luôn yên lặng giữ gìn tịch tĩnh để hợp nhất với hạnh phúc tối thượng.
Ha ha. . . .ha. . . Ứng theo cơ, tùy vật chiếu, ngu ngơ hoạt dụng, chẳng chấp chẳng bỏ, tùy thích an vui trong từng cử động nhỏ của mình. Như thế thì hương trà chẳng ngớt thơm, trăng xưa vẫn thường tịch chiếu, lối củ đường mây khách đến chơi.
"Bản lai vô nhất vật, nên dù có mang đến ngay cũng chẳng có chỗ để". Bởi thế nên tạm gọi là Phát Khí, Thụ Khí và Đắc Khí! Chứ tình thật đều như đứa bé đang cử động trong bào thai của mẹ nó.
- Này Ông Mập, một mảy trần cũng không lập, làm sao đúng sai, xấu tốt, bệnh, không bệnh, sinh tử khổ đau. . . .hiện tiền cả?
- Như nói chuyện với người trong gương rồi nhăn mày nhíu trán. . . .
Mây/22/8/2010
Chồng bánh trán 22/8/2010
Tượng người /23/8/2010
Bụi đá bay mịt mù, tiếng máy khoan đá xoèn xoẹt, tiếng đục gỗ chan chát. Tiếng cười tiếng nói cọng với tiếng máy nổ, tiếng ngã giá kì kèo, thành một âm thanh hỗn độn chói tai.
Hai Lúa nói thật to vào tai Ba Gàn :
- Ồ, quá nhiều Phật, nhiều Thánh. . . .lạy các ngài. . . .
Vừa nói hắn vừa xoa tay xuýt xoa, rồi chấp tay vái lấy vái để chung quanh và tứ phía, miệng hắn vừa lầm bầm vừa hít hà như ăn phải ớt.
Ba Gàn cười:
- Nè, nhiều tượng Phật, chứ đâu phải nhiều Phật.
- Thì có khác gì đâu, chỉ ít lâu sau, toàn bộ những tượng này người ta đều thỉnh về thờ cả. Thì đằng nào chúng sanh chẳng lạy. Lạy bây giờ hay vài hôm nữa lạy có chi khác chớ. . . .hề hề. . .
- Con người tự tạo ra hình tướng Thần Linh rồi lại tự sợ hải, cung kính, nô lệ tác phẩm của chính nó. . . .Ông thấy có kỳ dị không.
- Thế không thờ à?
- Có chứ, nhưng đó chỉ là phương tiện để trực ngộ vị Phật tại tâm của mình. Chứ trong xi măng gỗ đá đồng thạch cao làm sao có Phật.
- Nè, cái gì không phải Phật, Phật ở khắp mọi nơi chứ sao không?
- Đúng vậy, nếu nói thế thì cứ để tự nhiên chứ sao phải tạo ra hình tướng để lệ thuộc nó.
- Này, nhưng bây giờ chỉ là tượng gỗ, khi nào nó được "hô thần nhập tượng" thì mới linh, thì mình mới lạy chứ?
- Nếu vậy sao không hô Thần nhập vào mọi người để mọi người thành Phật chứ tu chi cho mệt.
- Khi làm lễ quán đảnh rồi, phải tu lâu thì mới thành được.
- Vậy con người thua gỗ đá sao. Gỗ đá chỉ cần hô Thần là thành Phật ngay mà.
- Nè, ông biết không, bây giờ người ta cũng dựng lên một con người nào đấy, rồi "Hô Thần Nhập Người" để thành Phật, bằng cách tuyên truyền quảng cáo và thêu dệt vô số giai thoại huyễn hoặc siêu nhiên.
- Hay quá, thông minh quá. Tượng gỗ người ta còn quì mọp, huống hồ là "Tượng Người". . . . .hề hề. . ..
- Ông nghĩ sao nếu "Tượng Người" được dùng như một Logo, thì cũng có lợi chứ.
- Hề hề. . . Nhưng Logo thì không biết nói, còn "Tượng Người" thì biết nói và nói quá nhiều . . . . hề hề. . .
Gió /23/8/2010
Vô Tác Diệu Lực
(Lớp KCDS TP.HCM/23/8/2010)
Khi buổi tập KCDS bắt đầu, thì nó như nhập vào cái dòng chảy không đầu không đuôi miên viễn và liên tục của thực tại. Ở đó, quá khứ, hiện tại và tương lai đều gom lại trong cái tích tắc của giây phút này đây. Nhưng là cái hiện tại miên viễn, chứ không chết lặng. Bởi vậy các biểu hiện khi thực hành KCDS là phi không gian và phi thời gian, không có đúng và sai, tự tại và vô ngại. Trong đấy cái hành động làm mà không có người làm biểu thị thuận tự nhiên, vừa vặn, trùng khít và ăn nhịp với dòng chảy miên viễn chung của thực tại. Là sự tương dung tương nhiếp của vạn hữu trên cái nền trong suốt đầy ánh sáng của không gian vô giới hạn. Một thế giới ánh sáng vượt ngoài những chia cách, âm u và xấu xí dẫy đầy. Như thế giới của sự nhắm mắt, bây giờ hoát nhiên mở ra, tràn ngập huệ quang, phúc lạc, trong suốt. Mọi sự đột nhiên rõ ràng sắc nét và không thể nhầm lẫn.
Này Cỏ May, như vậy cho nên, không phải là tập luyện mà là nhập pháp giới. Bởi vì vòng đai chật cứng của ngã chấp đã bị chảy tan ra và cảm giác về sự hữu hạn đã không còn đè bẹp chúng ta nữa.
Này Cỏ May, như vậy KCDS đầy sinh khí khi nhập thế phục vụ lợi ích của mọi người. Nhưng không vì thế mà nhuốm mùi phàm tục mà những hành động bình thường của nó luôn tỏa hào quang, bay bổng, đầy ánh sáng và ngát hương thơm của pháp giới.
. . . . .
- Này ông, xưa Bàng Uẩn đã có câu thơ lừng danh ta đọc để tặng ông:
Vận thủy cấp ban sai
Tạm dịch là: Này Thần thông !
Này diệu dụng !
Ta gánh nước
Ta đốn củi
- Con ngu muội chưa hiểu được ý người xưa xin cụ cho một thí dụ khác.
- Hề hề. . . .Cho ta bình trà sen thì ta sẽ nói
- Có ngay. . . .có ngay . . . . .
- Này ông, xưa Tổ Sư Lâm Tế có bài pháp về Văn Thù(Manjuri), Phổ Hiền (Samantabha) và Quán Thế Âm (Avalokitesvara) như sau :
« Có một số tăng đồ tìm kiếm văn Thù trên Ngũ Đài Sơn, nhưng họ đã bước sai hướng rồi. Chẳng có Văn Thù nào trên Ngũ Đài Sơn. Các ngươi muốn biết Ngài ở đâu không ? - Ngay tại lúc này, cái gì đó đang hành sự trong các ngươi, vững vàng không lay động, tin chắc không nghi ngờ, cái đó chính là Văn Thù sống vậy. Ánh sáng vô phân biệt chớp lên trong một niệm của các ngươi, đấy là ngài Phổ Hiền của các ngươi thường trụ chân thật. Mỗi một niệm của các ngươi, mà biết cách bẻ gãy xiềng xích, được giải thoát trong mọi thời, đó là đang thâm nhập chánh định của Quán Thế Âm. Mỗi một vị cũng hiện hành đồng thời và đồng xứ, tuy 3 mà một. Một khi hiểu được vậy, các ngươi có thể tụng đọc các kinh điển »
Bình về bài pháp « văn Thù không có trên Ngũ Đài Sơn » một thiền sư đã làm bài tụng sau :
Hà xứ thanh sơn bất đạo tràng
Hà tu sách trượng phỏng Thanh Lương
Vân trung túng hữu kim mao hiện
Chính nhãn khan thời phi cát tường.
Tạm dịch :
Núi xanh đâu chẳng Đạo tràng
Cần gì chống gậy hỏi Thanh Lương
Giữa trời dù có sư tử hiện
Trợn mắt trông ra chẳng Cát Tường
(Bị chú: Ngọn núi Thanh Lương trong dãy Ngũ Đài Sơn. Nơi đó truyền thuyết nói Bồ tát Văn Thù hay xuất hiện, có khi hóa thân làm người chăn trâu. Kim Mao Sư Tử biểu hiện cho trí tuệ. Văn Thù thường ngự trên đó. Cát Tường hay Diệu Cát Tường là Hán dịch của chữ Manjuri (âm : Văn Thù Sư Lợi) )
Hum:
Người tập Xà Quyền có cảm giác tan biến và hợp nhất với trời đất trong thế Thiên Địa Nhân Đồng Nhất, khiến mỗi người tập như là một tổng thể cụ thể. Nghĩa là mỗi một thực tại cá biệt, ngoài tính cách nó là nó, còn phản chiếu trong nó cái toàn diện.
Mỗi người như một giọt nước trong đại dương của Khí. Mỗi người như một nốt nhạc trong bản đại hòa tấu vô thủy vô chung không bao giờ ngừng nghỉ của trời đất. Ở đây nó hơi giống quan niệm của Hégel về những tổng thể cụ thể, vì nó là trạng thái Cái Một hợp nhất với Cái Toàn Diện không kẽ hở. Cho nên, một hệ thống của quan hệ toàn diện, cùng một lúc, tồn tại giữa những hiện hữu cá biệt, cũng như giữa những cá thể và phổ biến, giữa những luồng nội khí riêng rẽ và trường năng lượng phổ quát. Màn lưới toàn diện của những quan hệ hỗ tương này khiến mọi bài tập của KCDS đều có tính "Tương Dung".
Thí dụ như: Đốt một cây nến,rồi đặt những mặt kính thành vòng tròn quanh nó. Ánh sáng từ tâm điểm làm phát động một cuộc giao thoa toàn diện giữa các luồng ánh sáng phản chiếu. Khiến trong mỗi cái gương có vô lượng vô biên hình ngọn nến đang cháy.
Đó là sự biểu thị kỳ diệu của Viên Dung và Tương Dung.
Đối với KCDS, Sức mạnh và các khả năng kỳ lạ của nó, thường làm người ta ngạc nhiên, cũng là từ Viên Dung và Tương Dung mà ra. Nó là sức manh và sự huyền diệu của sự tương quan tương hỗ, đan chéo nhiều chiều, toàn diện và tổng lực, khi Cái Một hợp nhất với cái Toàn Diện, khi giọt nước rớt vào lòng đại dương của Tánh.
Ha ha. . . .ha. . . .Khi một cánh cửa đã mở ra và ánh sáng bừng lên từ nơi mạch nguồn sâu thẳm, soi vào ý thức tối tăm của chúng ta, thì tất cả những giới hạn của không gian và thời gian tức khắc bị tiêu tán mất và chúng ta những bộ xương khô từ mộ địa đang đội mồ phục sinh đứng dậy. Ngước mặt lên, nhìn mặt trời huệ đang chói chang, rống lên tiếng rống của loài sư tử chúa :
" Hum. . . Trước Abraham, tôi là tôi. . . ."
Ta tự do trong biển ánh sáng của Khí:
Này chú Ba, có một thế giới khác là thế giới của Khí, vốn không thuộc thế giới này, dù cả hai không rời nhau. Trong thế giới của Khí hay là trường năng lượng của bản thể, có một sự hỗ tương giao thiệp toàn diện giữa nội khí trong từng cá biệt với nhau và với năng lượng phổ quát là trường năng lượng của pháp giới.
Thế giới của Khí là thế giới đầy ánh sáng. Bởi vì bản chất của ánh sáng là hỗn giao mà không xảy ra sự ngăn ngại hay hủy diệt lẫn nhau. Vừa có tính cá biệt vừa có tính toàn thể. Đấy là kinh nghiệm tâm linh khi người thực hành KCDS thấy hào quang hay ánh sáng và thể nhập vào biển ánh sáng mênh mông này với trạng thái đầy nhận biết và tỉnh giác. Bởi vậy mà khi đắc khí hay thể nhập biển quang minh này người tập đột nhiên được tự do, tự tại, vô ngại, du hí càn khôn. Không có gì câu thúc kiềm chế động tác, mà động tác vẫn trang nghiêm thanh tịnh, cho dù bay bướm, thanh thoát, tự nhiên tuôn trào bất tận. Bởi động tác đã thành một luồng ánh sáng sẵn sàng dung thông hợp nhất với biển quang minh biến chiếu của Tánh.
Này chú Ba, khi mưa xuân về thì cỏ non tự lên xanh. Khi ta yên lặng thể nhập biển quang minh này của Khí. Tự nhiên con tim ta mở rộng ra đón gió muôn phương mà không còn khép kín như bấy lâu nay. Tự nhiên ta trôi theo dòng của dịch nên gọi là đạo hạnh. Không mục đích, không mong cầu, nương theo năng lực gia trì của lòng nhân ái và sự đồng cảm, viên dung, tương hợp bao la, ta nhảy múa, ta hát ca, ta làm mà như chơi, ta ăn uống ngủ nghỉ, ta chơi đùa với KCDS, mà như là suối nguồn trong suốt rì rào chảy mãi về đại dương của Tánh chẳng gì ngăn cản được.
Ha ha. . . ha. . ..như hư không hợp nhất với hư không, như ánh sáng hòa cùng ánh sáng, như lặng yên tan ra trong lặng yên, như rung động hòa cùng nhịp đập con tim Thượng Đế. Ta chơi trò chơi KCDS này, chơi hoài mà không biết chán. . . .ha ha. . . ha. . .
Nhớ ngày nào trời cũng mưa lớn như hôm nay. Bên ngoài mưa tuôn ào ào, gió giật từng cơn. Ta đang quay mặt vào tường, đối diện một minh với bóng đêm, thì Lão Già ấy đến và nói:
- ". . . .Chuyên Khí chí nhu, năng anh nhi hồ ? Tu trừ huyền giám, năng vô hữu tỳ hồ ?. . . Thiên môn khải hạp, năng vi thư hồ ? Minh bạch tứ đạt, năng vô dĩ tri hồ ? Sinh chi súc chi. Sinh nhi phất hữu, trưởng nhi phất tể dã. Thị vị huyền đức." (Lão Tử/Đạo Đức kinh)
Tạm dịch:
Luyện Khí đến độ chí nhu như trẻ sơ sinh được chăng?
Gột rửa tâm linh cho đến chỗ không còn tỳ vết được chăng?
Cửa trời chi phối mọi việc mà chỉ đóng vai con mái được chăng ?
Làm sáng tỏ rõ ràng bốn phương mà không dùng đến trí xảo được chăng?
Sinh ra rồi nuôi lớn. Sinh mà không chiếm hữu, nuôi lớn mà không cậy công. Đó gọi là huyền đức.
Hề hề. . . .ta cứ theo lời Lão Già mà sống, mà làm như vậy. . . .như vậy. . .cho đến tận ngày hôm nay. . . . .Nay ông muốn theo ta đi chơi thì cũng phải làm như vậy . . . .như vậy!
Xưa Tuyết Đậu có viết mấy câu, nay nhân trời mưa ta đọc cho ểnh ương nghe, để nó hết ềng oang nơi dương thế :
Giang quốc xuân phomg xuy bất khi
Chá cô đề tại thâm hoa lý
Tam cấp lãng cao ngư hóa long
Si nhân do đậu dạ đường thủy
Gió heo may mùa xuân reo vui trên Giang quốc
Chim chá cô hát líu lo giữa đám hoa rậm
Tam cấp sóng cao cá đã hóa rồng
Người ngu ban đêm còn tìm nó trong mương nước.
Lâu nay gió cứ tìm Mây để thổi. . . . .hề hề. . . .đâu có hay Mây đã hóa thành Hư Không từ lâu rồi ! Tức cười là vậy, do có chuyện cười này, nên bản chất của Tánh là Không với cái Niềm Vui Không Nguyên Nhân âm thầm lặng lẽ lúc nào cũng tròn đầy mọi lúc mọi nơi.
Tối nay lớp KCDS Phú Nhuận học buổi chót và sơ kết lớp học.
Đại bộ phận bà con dự tập đều đã đắc khí, tỷ lệ lành và giảm bệnh rất cao, khoảng độ 70% đã có chuyển biến tốt về bệnh và cải thiện được tình trạng sức khỏe. Hiệu quả nhất là các bệnh về rối loạn chức năng và stress, còn các bệnh về cơ năng mãn tính thì bà con kết hợp uống thuốc của bệnh viện với tập, nhưng có một số ca, không kết hợp với thuốc khoa nội vẫn hiệu quả như thường. Các bệnh nặng thì bà con kết hợp dùng các biệt dược theo chỉ định của các y bác sĩ và tập KCDS. Cón các ca chỉ định phẩu thuật thì bà con dùng KCDS như là một biện pháp để phục hồi chức năng sau phẩu thuật và là biện pháp tăng cường thải độc do dùng hóa trị, xạ trị và khánh sinh lâu ngày. Các ca mất ngủ lâu năm, tâm thần và các bệnh về gân cơ xương khớp tỏ ra đặc biệt có tác dụng tích cực, như: Gai, vôi hóa, thoái hóa cột sống dẫn đến thiếu máu não, liệt cho trên và dưới, viêm đa khớp, . v.v . .
Thể theo nguyện vọng của bà con. Hội Đông Y Quận Phú Nhuận sẽ kết hợp với Câu Lạc Bộ KCDS của Quận tổ chức duy trì lớp tập này thường xuyên để giúp bà con được tiếp tục rèn luyện nhằm nâng cao thể lực và tự điều trị bệnh.
Sau đây là một số hình ảnh buổi tập cuối cùng và sơ kết này. Mới các bạn cùng xem: