Forums

KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH

KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
Diễn đàn thảo luận, nghiên cứu về Khí công và Dưỡng sinh

LỤC TỰ ĐAI MINH CHÂN NGÔN TRONG THIỀN QUÁN

  • Đệ thấy có bài viết sau: http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/luctuchanngon.htm thấy quen quá.

    Các huynh tỷ cho ý kiến nhé

     

     

    LỤC TỰ ĐAI MINH CHÂN NGÔN TRONG THIỀN QUÁN

    - Huệ Khải -

     

     

     

    UM MANI PADMI HUM!   gọi là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn. Nó có công năng diệt trừ mọi tai nạn, đau khổ, giúp người tu đạt trí tuệ sáng suốt của Phật Thừa, gọi là Đại Minh. Bởi vậy thực hành sáu chữ này thì đạt cái huệ tự nhiên, cái vô phân biệt trí, cái trí tự nhiên biết, thấy như thật, biết như thật để làm như thật. nên gọi là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn. Trong đó Chân Ngôn nghĩa là Đalani. Lục Tự nghĩa là gồm có sáu chữ . Đại Minh nghĩa là sáu chữ này hành công rốt ráo sẽ đưa lại cái biết to lớn, sự sáng suốt to lớn, nghĩa là cái huệ, cái tự nhiên biết, cái phản ảnh như thật của Tâm Bát Nhã Bala Mật Đa (Prajna Paramita).

     

    UM MANI PADMI HUM!  là câu thần chú nổi tiếng ở thế giới. Phật tử nào cũng thuộc, môn phái nào cũng trì tụng vì lực bất tư nghì của nó. Nó có công dụng diệt trừ đau khổ. Giúp người tu tập vượt qua Dukkha, đạt giải thoát và cái huệ tự nhiên của nhà Phật. Thần chú này do Đại Bồ Tát Quán Thế  Âm thương xót chúng sanh mà tuyên thuyết trước mặt Như Lai. Vậy phải hiểu thế nào là Quán Thế Âm thì bạn mới biết cách dụng của Quán Thế Âm - 'Um Mani Padmi Hum'.

     

    Quán Thế Âm Bồ Tát tượng trưng cho cái nghe ngược về bên trong của bạn. Chẳng những nó có ý nghĩa là Bồ Tát quán sát, lắng nghe âm thanh kêu khổ của thế gian để phát tâm đại từ đại bi cứu khổ chúng sanh. Chẳng những  nó có ý nghĩa thông thường như vậy mà đối với mật tông đại thừa, Quán Thế Âm Bồ Tát còn có ý nghĩa là cách quán sát âm thanh  thế gian để đạt đến Phật Thừa.

     

    Cách ấy là thế nào? Bạn quán sát âm thanh với tâm tịnh, để tịnh tiến dần đến điểm lặng yên tột cùng . Theo đấy, âm thanh sẽ có năm dạng mà bạn phải thực hành, quán sát và tu tập luyện công.  Từ  từ  qua kỹ thuật quán sát âm thanh này, bạn sẽ đạt nhĩ  căn viên thông. Như vậy,  đạt Bồ Tát Thừa và  Phật Thừa qua kỹ thuật quán sát âm thanh.

     

    Năm dạng âm thanh ấy là gì?  Đầu tiên người mới tu tâm loạn động, vọng niệm là đầu mối của vô minh. Muốn chặt đứt vọng niệm này, người tu phải cột chặt tâm mình vào một giả âm cần thiết. Cột chặt tâm vào một âm thanh giả tạo này để tạo chánh định cho tâm. Thí dụ  bạn trụ tâm chặt vào câu niệm  'Nam Mô A Di Đà Phật', 'Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát' hoặc 'tôi đang nhận khí đây' chẳng hạn. Đó là giả âm, đó là  âm thanh giả tạo chẳng hề có ở thế gian, do bạn tự đặt ra, do tôn giáo đặt ra. Nó là phương tiện cột chặt tâm  lại mà thôi, không để nó phát triển tự phát.   Do trụ  chặt vào câu giả âm này, tâm đứng yên gọi là chánh định.

     

    Sau thời gian chánh định. Kỹ thuật quán sát âm thanh  tiến lên bậc thứ nhì đó là tập quán sát thực âm, âm thanh thực tế của cuộc sống. Lúc bấy giờ,  các tiếng động ở thế gian, âm thanh ở thế gian, bạn sử dụng giống như câu niệm Phật, giống như mã khóa. Nó có tác dụng để hành động bạn đáp ứng với tình huống. Thay vì bạn niệm 'Nam Mô A Di Đà Phật' ...  thì nay bạn phải thích ứng với một âm thanh tự nhiên có thật trong xã hội. Bạn quán sát âm thanh này,  trụ tâm vào âm thanh này thì âm thanh này biến thành mã khóa và nó có tác dụng cột chặt tâm bạn để vào định, nên gọi là Quán Thế Âm ở  bậc thực âm.

     

    Theo thời gian tu tập, bạn tiến lên quán sát âm thanh vi tế hơn gọi là diệu âm. Thế nào là diệu âm?  Diệu âm có nghĩa là không phải nghe âm thanh bằng lỗ tai, mà nó là cái hiểu biết qua sự nghe, gọi là nhĩ thức. Bạn nghe một âm thanh não bạn vận động, tư duy tạo ra một ý niệm về âm thanh này gọi là cái biết của sự nghe, gọi là nhĩ thức. Nếu thực sự bạn tu đến mức độ này thì sáu căn bạn sẽ hợp nhất. Chẳng những nghe bằng tai mà bạn còn nghe bằng mắt, nghe bằng mũi, nghe bằng lưỡi, nghe qua xúc giác của đụng chạm sờ mó. Chẳng những bạn nghe bằng tai mà ý nghĩ trong đầu bạn cũng là một dạng âm thanh. Bởi vì lục căn tiếp xúc với lục trần sinh ra lục thức. Nếu không trụ vào các căn mà trụ vào cái biết của căn khi đối diện với lục trần thì  nhĩ thức cũng như các thức khác.  Cái biết sau khi nghe cũng như cái biết sau khi thấy, không khác gì nhau. Bởi vậy gọi là  quán sát âm thanh ở thể diệu âm. Dù tai bị điếc đi, bạn vẫn nghe bằng các giác quan khác như thường.

     

    Qua quá trình tu tập, nếu đã thực chứng diệu âm bạn tiến lên quán sát âm thanh của Đalani nghĩa là âm thanh không nội dung.  Đalani hay thần chú của Chư Phật là âm thanh không nội dung, gọi là âm thanh vô ngã. Bạn nhập vào biển âm thanh này, âm thanh chỉ là tác nhân, khiến năng lượng giác ngộ (bodhi) hiển thị thành Phật lực, khiến trí tuệ  phát triển thành tự nhiên trí.

     

    Giai đoạn chót nghĩa là âm thanh thứ  năm, dạng âm thanh tối thượng, nếu thực chứng sẽ đạt Bát Nhã Ba La Mật Đa, đó là âm thanh cõi lặng yên, âm thanh không tiếng động. Làm sao quán sát âm thanh không tiếng động (?), âm thanh cõi lặng yên là gì (?).  Đó là ý nghĩ trong đầu, đó là cảnh biến diệt của nội tâm, bạn là chứng nhân cho trạng thái vận động của não bộ. Tâm không có ý niệm không có âm thanh nào thì  biết nó không có âm thanh nào, âm thanh nào khởi lên có đặc tính của âm thanh ấy. Một ý nghĩ sân hận khởi lên, nghe được âm thanh sân hận này. Một ý nghĩ tham dục khởi lên, nghe được âm thanh tham dục này. Bạn nhận biết, chứng kiến trạng thái biến dịch của tâm qua kỹ thuật lắng nghe âm thanh của tâm thức mình. Âm thanh này không có tiếng động mà như có tiếng động , người ngoài chẳng biết, tai chẳng nghe được. Nó là sự cảm nhận, gọi là âm thanh cõi lặng yên. Tâm thức bạn chính là pháp giới này, âm thanh của tâm chính là âm thanh kêu khổ của thế gian. Bạn nghe được âm thanh của tâm thì tượng trưng cho Bồ Tát Quán Thế Âm nghe tiếng kêu khổ của thế gian này. Bởi vậy, niệm danh hiệu của Bồ Tát mà không quán tâm mình,  chờ thần lực của Bồ Tát gia trì mà âm thanh tâm mình khởi lên,  mình không thấy, mình không biết, mình chẳng chứng kiến nó, mình chẳng phải là học trò của Quán Thế Âm, làm sao nhận được sự gia trì. Nếu niệm Quán Thế Âm mà không biết lắng nghe âm thanh cõi lặng yên thì chính là sự mê tín.

     

    Vậy muốn giác ngộ thành Phật, nhất thiết từng giờ từng phút trụ vào trạng thái nhận biết tỉnh giác, quán sát âm thanh cõi lặng yên.   Nghĩa là thấy biết các ý nghĩ của mình.

     

     Để giúp cho sự chứng kiến này, để giúp cho trạng thái Quán Thế Âm, để giúp kiểm tra chứng kiến điều chỉnh tâm mình bằng kỹ thuật Quán Thế Âm.  Bồ tát Quán Thế Âm đã tuyên thuyết thần chú  'UM MANI PADMI HUM'. Công năng của nó giúp bạn cực kỳ sáng suốt, luôn luôn nghe được âm thanh cõi lặng yên nghĩa là luôn luôn biết được sự biến diệt trong não bộ , sự vận động của tâm và tham dục khởi lên trong tâm mình, Bạn không biết làm sao sửa,  không biết làm sao tu, không biết thì nhất thiết không thể giác ngộ. Phật Thừa là cái biết tối thượng. Quán Thế Âm là con đường đến cái biết này. Thần chú 'UM MANI PADMI HUM' có công năng giúp bạn đạt được sự việc ấy.

     

    Thần chú là bất tư nghì không giải thích được. Qua thực chứng, mỗi người có cái biết riêng, kinh nghiệm riêng khi hành trì. Đây không phải ý nghĩa của thần chú mà là cái biết của Chư Tổ  và cái biết riêng của các Vị  tu  chứng truyền thừa lại.

     

    UM nghĩa là gì (?), UM nghĩa là âm thanh mở luân xa bảy ở đỉnh đầu gọi là Sahasrara hoặc là nê hoàn cung. Nó là luân xa chót khi nội khí thăng hoa vượt qua hệ thống luân xa. Nó là cửa ngõ để nội điển bạn giao hòa với điển quang Chư Phật, Chư Bồ Tát. UM tượng trưng cho bản thể, tượng trưng cho cái một, tượng trưng cho Phật tánh ở thể dụng . Um là   cái bản thể hiện thị thành vạn pháp. MANI nghĩa là hạt ngọc môni châu, nghĩa là tinh khí thần hợp nhất mà phát ra ánh sáng, còn gọi là 'tam miệu tam bồ đề', còn gọi là 'samadhi'(đại định). PADMI nghĩa là hoa sen. HUM nghĩa là quay về, tịch diệt, lặng tắt.

     

    Như vậy, UMMANI PADMI HUM  như bức tranh vẽ lại khung cảnh  giữa hoa sen có hạt ngọc môni châu sáng lấp lánh, tỏa hào quang. Sau đó lặng ngắt đi mọi sự trở về trống rỗng (Sunnya).

     

    Tại sao có hiện tượng này ? Khi bạn tu pháp Quán Thế Âm vào định, độ định sâu dần. Trước khi vào đại định, trong sự  lặng yên của tâm thức bạn bỗng vang lên âm thanh UM! . . .UM! . . .UM! . . . . . .  như tiếng sấm rền, từ màn tối tăm của tâm thức ánh sáng bỗng bừng lên bằng vô lượng vô biên các hạt sáng lập lánh gọi là hạt Bindu, hạt vi trần, hạt điển  quang. Các hạt sáng này quay tít, sau đó co lại giống như hình hoa sen, ở giữa tâm của nó có vùng rất sáng giống như hạt ngọc môni châu. Toàn thể quang cảnh này xảy ra ở tâm khi bạn vào đại định. Sau đó quang cảnh này bỗng tắt đi, bạn rơi vào trạng thái hẫng hụt gọi là trống rỗng không còn gì cả, Bạn nhập vào Samadhi, bất tư nghì không thể nói lại được.

     

    Như vậy, 'UM MANI PADMI HUM' là quang cảnh ở tâm trước khi  đạt thể tâm không của nhà  Phật.

     

    Tâm không là gì ? Giống như  cái gương  phản chiếu như thị mọi sự. Khi đối diện với sự việc gì thì bạn biết như thật. Cái biết này không maya, cái biết này không huyền ảo, cái biết này không méo mó khi qua tâm phóng chiếu nhị nguyên. Khi đạt tâm không thì không có môi trường nhị nguyên nữa nên bạn sẽ thấy như thật. Trước khi đạt trạng thái này thì 'UM MANI PADMI HUM' xảy ra trong cơn thiền định của bạn.

     

    Khi chưa đạt tâm không, độ định còn kém bạn trì âm thanh này nghiã là làm định lý đảo để nhằm đạt trạng thái HUM tiếp cận tâm không, nghĩa là với trạng thái tịnh hành công với thần chú này,  qua thời gian tu tập nhất thiết sẽ đi vào Samadhi của Chư Phật và đạt trạng thái prajna (bát nhã). Khi ấy, tâm bạn không phóng chiếu sự vật nữa mà thấy như thật, biết như thật nên  sẽ làm như thật. Như vậy gọi là Nirvana, gọi là Niết Bàn vì thuận tự nhiên.

     

     

     

  • ...Thấy quen quen quen lắm,bài thanh văn nầy Thầy đă phát công ở suối Ngổ hay ở Hà nội (miền Băc),có huynh nào đó ghi âm lại và biên tập đưa lên trang w..Buddhism... hình như còn hai(02) bài nửa là "Phật tại Tâm" và "Bất Nhị" .đệ sẻ cố gắng tìm lại những bài  thầy đã giảng và phát công khi Thầy ở Nhatrang...

    Tập Như/12/4/09

  • chắc là chỉ có cái hình này thể hiện được

    2728.Bay-di-muon-neo.jpg

     

    OM CALE CULE CUNDHE SVAHA

  • Hay quá..hay quá..Bài này thầy giảng thật hay.
    Tiểu ni xin góp một cánh hoa dại bé xíu vào vườn hoa Phật Pháp
    OM MANI PADME HUM còn là một con đường để  mở được 6 nút thắt gút trên chiếc khăn BẢO- HOA, để khăn BẢO-HOA trở lại TRẠNG THÁI TỰ NHIÊN mà không bị ngăn ngại bởi 6 nút thắt gút .(Câu chuyện mở gút của Ngài A-NAN trong kinh THỦ LĂNG NGHIÊM).
    OM MANI PADME HUM còn là con đường chuyển hóa than thường thành KIM CƯƠNG BẤT HOẠI
    OM MANI PADME HUM còn là con đường để HẠT MẦM vươn lên khỏi bùn lầy , nảy nở những phẩm chất TỰ NHIÊN  (TỪ BI VÀ TRÍ HUỆ) và nở bung thành đóa sen ngàn cánh giống như ngàn cánh tay của ĐỨC QUAN ÂM THIÊN THỦ THIÊN NHẢN .
    Đời và Đạo pháp vốn không hai
    Thiện ác không mê thấy Bổn Lai
    Khơi dòng Tâm thức miên man chảy
    TRÍ - BI nảy nở Pháp Thân hiện tiền
    Có chút Tâm ý muốn góp hoa, nếu có gì sai sót xin Chư vị niệm tình tha thứ
    NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
  • Nam mo A Di Đà Phật !
  • Cái bình tâm trí đã vỡ toang
    Cánh Sen theo gió ...gió theo ngàn
    Mảnh vỡ thành con thuyền Bát Nhã
    Qua thẳng bờ kia với cánh hoa
  • Nam Mô A Di Đà Phật!
    Trên diễn đàn đã có bài viết BẤT NHỊ của Thầy rồi!
    Và đây là bài viết PHẬT TẠI TÂM của Thầy, mình tình cờ sưu tầm được, xin được chia sẻ???

    PHẬT TẠI TÂM

     

                Trước Đức Thích ca chưa ai thành Phật, vậy Ngài tu theo ai?

                Verocana Bodhi nghĩa là Tỳ Lô Giá Na tượng trưng cho pháp thân của Như lai nghĩa là Phật tánh bên trong, nghĩa là bản thể sự vật, nghĩa là cái đầu tiên, nghĩa là chân không mà diệu hữu, nên Như Lai gọi là Chân Như. Nghĩa là trong cái không, không phải là tịch diệt hoàn toàn, mà có mầm sống của vạn pháp ẩn tàng trong ấy. Pháp thân này thường trụ, bất hoại, không thêm, không bớt hằng còn như thế mãi. Nó là cái mà Chư Tổ gọi là Con Người Thật của Bạn. Nó là cái mà Chư Tổ gọi là Bản lai Diệu mục của Bạn. Nó là cái mà Chư Phật gọi là Phật Tánh của Bạn. Phật Tánh của bạn ở dạng Thể và dạng Dụng. Thể và Dụng hợp nhất lại vượt lên trên thì gọi là Phật. Ở dạng thể thì các Bạn tiếp cận bằng kỹ thuật Thiền. Ở dạng dụng thì Bạn tiếp cận bằng kỹ thuật Năng lượng của mật tông.

                Bạn không thể tu để thành Phật được, vì Phật tánh có sẵn bên trong. Bạn vốn Phật đã thành, tại vô minh quên đi mà thôi. Nay Bạn đi dần về thế tịnh, mọi sự phóng chiếu của tâm thức đều gãy đỗ đi, Bạn có cái biết trực nhận, trực ngộ và trực tiếp với sự vật, Bạn và sự vật hợp nhất làm một, không qua suy luận của lý trí nhị nguyên thì gọi là Bạn hành thâm Bát Nhà Ba La Mật Đa (Prajna Paramita).

                Bát nhã không thể ngồi im như vậy mà đạt được, nếu ngồi im mà đạt Bát nhã thì cục đá kia thành Phật trước Bạn. Nếu ăn chay mà thành phật thì con bò, con trâu kia thành Phật trước Bạn, nếu như tụng kinh mà thành Phật thì con chim, con cuốc kêu ngoài rừng thành phật trước Bạn. Bạn không bị cái hữu tướng lôi đi. Bạn chẳng những gạt bỏ dần bụi bặm của tâm hồn. Bạn chớ bày,  làm cho các hữu tướng dày đặt thêm lên,  khiến cho Phật tánh không hé lộ ra được. Bạn phải biết, các pháp hữu vi của nhà Phật chỉ là phương tiện, Bạn đừng nô lệ các phương tiện này. Trong đầu bạn đã có muôn vàn ý nghĩ, Bạn đừng để cho ý nghĩ thành Phật,  làm nhiều thêm các ý nghĩ này. Trong đầu bạn có muôn vàn sự loạn động, đừng tụng kinh với tham dục mà làm các loạn động này kích hoạt thêm lên. Trong các tham dục, tham làm Phật cũng là tham dục. Trong các hữu tướng, nô lệ các tướng cũng là sự nô lệ.

                Không phải Bạn tu để thành người tu, mà Bạn tu để thành Phật. Thành Phật thì xả bỏ bớt đi, đừng vơ vào làm gì. Bạn theo ý nghĩ, ý chỉ của nhà Phật mà sống, mà quán tưởng, mà tiến dần về thế tịnh. Bạn đừng đem tám vạn bốn ngàn pháp môn của Như lai vây chặt lấy tâm hồn sáng suốt của Bạn.

                Chẳng phải Bạn quá đau khổ vì mọi sự của chúng sanh chăng? Chẳng phải cơm, áo, gạo, tiền… làm bạn quá đau khổ rồi chăng? Vậy cớ sao bạn còn cộng thêm cái khổ tu vào làm gì? Bạn tu như vậy là quá khổ ! Bạn tu như vậy  thì Niết Bàn đâu không thấy mà vơ cái cực nhọc vào người. bạn đang sống trong địa ngục đấy mà Bạn chẳng hay!

                Bạn làm người bình thường còn chưa được, sao muốn thành phật được. Chỉ có gạt bỏ định kiến của bạn đi. Tâm trí nhị nguyên Bạn gãy đổ đi. Bạn có cái thấy hồn nhiên của đứa bé, bạn có cái biết trực tiếp bằng sự rung động của con tim, không qua ý thức hệ, lý luận và kinh sách nào. Bạn và sự tự nhiên là một thì gọi là thành Phật, thì gọi là sống thuận tự nhiên, thì gọi Bạn và vũ trụ đồng biến dịch.

                Các sự trái tự nhiên đều dẫn đến DukKha là đau khổ, đều tạo ra Karma là nghiệp lực. Vậy Bạn bận quần áo tu sĩ, vậy Bạn ăn chay, vậy Bạn tụng kinh chỉ là vô ích nếu bạn không dụng tâm quán tâm mình được, nếu Bạn không giữ được tịnh giữa muôn ngàn ý nghĩ phải có trong tâm bạn, Bạn ngồi đấy trù gạt bỏ mọi ý nghĩ của Bạn, người mà không có ý nghĩ làm sao làm việc được? Cục đá kia chẳng có ý nghĩ mà nó có thành Phật đâu.

                Bạn muốn ngồi thiền để thành gỗ đá vô tri chăng? Nếu hòn đá kia mà có con tim rung động thì nó thành Phật trước bao nhiêu Nhà tu khổ hạnh khác. Bạn phải sống, phải làm việc, phải là một con người với đầy đủ mọi tâm tư, tình cảm. Sự rung động tự nhiên mà Bạn vẫn thành Phật. Đó là vì Bạn giữ  tịnh giữa muôn ngàn ý nghĩ. Đó là vì Bạn giữ tịnh giữa muôn ngàn hành động. Đó là vì Bạn tu mà không thấy có tướng tu. Đó là vì Bạn tụng kinh mà không có người tụng kinh. Đó là vì Bạn  ăn chay mà chẳng có người ăn chay, Đó là vì Bạn niệm phật mà chẳng có người niệm phật, Đó là vì Bạn lễ lạy mà bản chất là rỗng không và tịch lặng.

                Kinh nói: '' Năng lễ, sở lễ tánh không tịch'' Người lạy và Người nhận sự lễ lạy của Bạn bản chất là tánh không và tịch lặng. Nếu Bạn tưởng có ông Phật ngồi đấy để nhận cái lạy của Bạn, Bạn là phật tử  mê tín. Nếu Bạn tưởng có Phật gỗ ngồi đấy nghe tụng kinh, Phật gỗ làm sao có tai? Bạn là Phật tử mê tín.

                Bạn ăn chay, niệm Phật như vậy, là để tham dục khỏi khởi lên , là để Bạn gạt bỏ được bụi bặm của tâm hồn Bạn, là để Bạn hội nhập với thế tịnh và an lạc của Như lai. Chứ không phải bạn ăn chay, niệm phật và tu các pháp hữu vi làm Bạn nặng nề thêm, làm Bạn chất chứa thêm, làm Bạn tốn thì giờ thêm, làm Bạn thêm cái khổ và muôn ngàn cái khổ khác mà bạn đang có.

                Vậy, Bạn quay về Ngôi Nhà Tâm của Bạn bằng cách nào? Vậy Bạn tiến về chân lý bằng cách nào? Bằng hai con đường thể và dụng để cuối cùng Bạn hội nhập với cái bất tư nghì là phật Tánh.

                Về thể, Bạn dụng tâm quán tâm không phút nào ngừng nghỉ. Hành động của Bạn, Bạn phải chứng kiến cho được. Lời nói của Bạn, Bạn phải chứng kiến cho được, ý nghĩ khởi trong đầu bạn, bạn phải chứng kiến cho được. Tu là trở thành chứng nhân của chính mình. Chứ nếu Bạn là người làm, chứ nếu Bạn là người muốn sở đắc thì lập tức sa vào thiện nghiệp, rớt xuống địa ngục và dính vào Dukkha.

                Nếu bạn tụng kinh nhằm cầu lành bệnh, nhằm sinh con đẻ cái, nhằm giàu có và phước báo ở thế gian là bạn dùng cái Tâm tham dục tụng kinh. Như vậy đâu phải là chánh giáo của Như Lai. Nếu Bạn niệm Phật mà như cầu Phật gia hộ Bạn cái gì thì Bạn chả biết Phật là gì. Nếu thật sự có Chư Phật, Chư Bồ Tát ở cỏi tâm linh này, Ngài đâu có cần Bạn tốn thời giờ cầu khẩn như vậy. Nếu chờ đợi Bạn tụng kinh quá lâu, cầu nguyện quá nhiều mới gia hộ thì đâu phải là Đại từ Đại Bi.

                Bạn tụng kinh quá lâu, Bạn cầu nguyện liên tục là để Tâm Bạn hợp nhất với thế tịnh của Như Lai. Nếu Bạn càng tụng kinh, Bạn càng cầu sở đắc. Nếu Bạn càng niệm Phật, để bạn cầu cái lợi gì đấy hữu tướng, là Bạn đã bắt đầu xa rời con đường chánh của Như Lai.

                Pháp tụng kinh cao nhất của Bạn là gì? Đó là kinh vô tự của Như Lai. Bạn giữ được thế tịnh giữa muôn vàn ý nghĩ của Bạn. Bạn giữ được thế  tịnh và an lạc trong khi vẫn làm việc và tu tập. Như vậy gọi là tụng kinh liên tục mà không xa rời Pháp của Như Lai.

                Bởi vậy, Bạn tiếp cận ở vấn đề bằng hai mặt tâm lý và năng lượng. Về tâm lý, Bạn nhất thiết phải hành thiền, không hành thiền thì không thể tiến lên được và không thể thực chứng được. Đối với pháp của chư Phật, Thiền Tông là yếu lĩnh. Khi hành Thiền, Bạn phải chứng kiến, chớ làm người hành động mà chỉ là chứng nhân cho chính mình. Bạn tụng kinh, Bạn có thấy mình đang tụng kinh chăng hay là tham dục đang choán đầy tâm Bạn. Tụng kinh để trả nợ Như Lai vì đã lỡ hứa rồi, Như Lai đâu có tai mà nghe Bạn hứa, Như Lai làm sao chấp nhận tâm tham dục của Bạn mà Bạn cầu.

                Bạn tụng kinh, thứ nhất để đi vào thế tịnh an lạc, mục đích dần dần hội nhập với biển quang minh của Như Lai, tâm Bạn dần dần đi về thế tịnh giữa muôn vàn cái động. Trong cuộc sống, trong tu tập, Bạn không bao giờ rời xa vị trí chứng nhân. Bạn là khán giả, không phải là diễn viên. Bạn phải thấy Bạn đang tụng kinh, tụng kinh như vậy có tịnh chăng hay tham dục tụng kinh. Bạn phải thấy Bạn đang ngồi thiền, ngồi thiền như vậy là Vô Ngã hay nhằm sở đắc cái gì mà ngồi thiền.

                Bạn có một hành động nào, Bạn phải thấy hành động này, hành động này xuất phát là đáp ứng tình huống tự nhiên hay là do cái tôi tham dục điều khiển . Bạn nói một lời nói nào, lời nói ấy là vô ngã, đáp ứng tình huống hay do sự  tham dục làm Bạn nói ra lời nói ấy. Khi Bạn đang tu tập, Bạn đang làm việc đời, Bạn có chứng kiến sự vận động trong não Bạn chăng? Các ý nghĩ khởi lên Bạn có biết chăng ? Nếu sân hận tham dục khởi lên mà không biết thì tụng kinh là mỏi miệng. Nếu  không giữ được thế tịnh giữa muôn vàn ý nghĩ này thì tu như vậy là vô ích. Bạn trụ vào trạng thái chứng kiến như vậy không phút giây nào sao nhãng cho đến khi sự chứng kiến là tự nhiên, chỉ có hành động chứng kiến mà không có sự cố gắng chứng kiến thì gọi là Bạn thực chứng về Thiền Tông. Đó là một nữa của vấn đề về tâm lý.

                Nữa còn lại về SATTVA, thể xác và năng lượng của Bạn. Chẳng những Bạn không khổ hạnh, làm suy kiệt cơ thể đi,    phải biết vận dụng phương tiện hữu ích này là thân xác bạn để tu tập và rèn luyện. Trong sự vận dụng này, Bạn tập Thiền năng lượng là quan trọng. Vì Điển quang là khởi nguồn của sự sống, vì Điển quang là năng lượng thiết yếu của cuộc sống. Vậy về năng lượng, Bạn luyện thể xác Bạn và Bạn Luyện năng lượng Bạn,  cho đến khi năng lượng Dục chuyển hoá thành năng lượng Giác Ngộ, thăng hoa dần lên và cuối cùng thành cực tịnh để giao thông với Điển Quang của Như Lai. Năng lượng nhỏ bé của Bạn qua hệ thống bảy luân xa nhập vào biển quang minh của Chư phật gọi là Nhập pháp Giới. Bạn sẽ có sức mạnh của Như Lai. Bạn sẽ tiếp cận với Như Lai qua phương diện năng lượng này.

                Dụng Tâm quán Tâm và thực chứng năng lượng để hội nhập với biển quang minh Như lai là hai chân của Bạn tiến về thế Phật. Bạn tiến bằng hai chân này cho đến khi rốt ráo, Bạn sẽ nhập Đại Định và thực chúng Bất Tư Nghì của nhà Phật. Lúc ấy, không có vị thầy nào hướng dẫn Bạn được nữa, không ai có thể truyền đạt cái gì được nữa. Tự Bạn Bạn biết. Tự Bạn Bạn chứng .

    Trước lúc ấy, nhất thiết phải đi bằng hai chân, đừng đi một chân mà không tiến được.

    Thể và dụng song hành, tu và hành song đôi, hiển và mật viên thông

    Hết...

    Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát,
    Nam Mô A Di Đà Phật

  • Tap Nhu

    ...Thấy quen quen quen lắm,bài thanh văn nầy Thầy đă phát công ở suối Ngổ hay ở Hà nội (miền Băc),có huynh nào đó ghi âm lại và biên tập đưa lên trang w..Buddhism... hình như còn hai(02) bài nửa là "Phật tại Tâm" và "Bất Nhị" .đệ sẻ cố gắng tìm lại những bài  thầy đã giảng và phát công khi Thầy ở Nhatrang...

    Tập Như/12/4/09



    Bất Nhị

    Chào bạn Tap Nhu!
    Bài này, Bất Nhị, đã có trên web. Nếu còn có bài nào chư huynh gửi lên chia sẽ nhé.
    "Ông muốn nghe cái tui sẽ nói hay nghe cái ông muốn nghe?".
  • Cuối cùng là tự mình tự tại tại tự mình
    Nói đi nói lại mãi thông kinh
    Tự mình biết mình trong mọi thể
    Tự hành tự nhận " Lục tự đại minh ... "