Vô ngã

đọc những lời của phanthiet thật lý thú:
"chỉ chăm chăm Quán thì sẽ lạc, mà phải luôn “nhận biết mình đang quán” thì mới được. Hềhề. . . Đừng để việc Quán Thập Bát Giới làm “mình vắng mặt” khi Quán."
1-chỉ chăm chăm Quán thì sẽ lạc
2-nhận biết mình đang quán
3-Đừng để việc Quán Thập Bát Giới làm “mình vắng mặt” khi Quán.

Thế thì làm thế nào:''Quán mà không có Người Quán thì mới nên Quán Thập Bát Giới ! "?---Chỉ còn cách im lặng mà không thể nói lời nào!

Tuyệt chiêu!!!

Kinh Bốn lĩnh vực quán niệm có nói rằng:"người ấy an trú trong sự quán niệm tâm thức nơi tâm thức; hoặc quán niệm bên trong hoặc quán niệm bên ngoài tâm thức ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Vị ấy an trụ trong sự quán niệm quá trình sinh khởi nơi tâm thức, hoặc quán niệm quá trình huỷ diệt nơi tâm thức. Hoặc vị ấy quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn huỷ diệt nơi tâm thức. Hoặc vị ấy quán niệm: "Có tâm thức đây", đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của tâm thức ấy và như vậy, vị ấy an trú một cách tự do, không bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận..."
  • Phật pháp uyên thâm khó nghĩ khó bàn. Nhưng nhất định chưa biết thì chưa làm. Biết chưa rõ thì phải hỏi lại rồi mới hành. Bởi vậy khi uống trà thư giãn, không dám lạc vào hý sự và hý luận, cũng không phải cứ nhắm mắt tin theo cái chấp nhận của đám đông.
    Nên khi gặp điều chưa hiểu chưa thấu đáo thì cung kính nêu ra đây để xin chư vị Thiện Tri Thức trong mười phương khai thị giải nghi cho.
    Đây không phải là tranh luận để giành thắng thua. Mà là mượn trang báo này để tìm ngọn đèn soi bước cho mình đi.
    Có gì thất thố mong chư vị và chư huynh niệm tình tha thứ cho:
    . . . . .

    Đệ Tử đã qui y và một lòng kính ái Tam Bảo (Phật, Pháp Tăng).
    Nhưng thật sự có tâm cầu đạo nên phải hỏi thật cặn kẽ để giải nghi. Bởi cho dù vấn đề được đám đông cho là chân lý, thì người tu học cũng phải tự mình kiểm nghiệm lại để tự có cái kinh nghiệm của chính bản thân mình chứ không thể cứ nhắm mắt nói và làm theo đám đông được.
    Bởi vậy kính xin chư Tăng, chư vị Thiện Tri Thức tha cho các lỗi của đệ tử khi trình kiến giải của mình để xin tham vấn.

    Với thành ý như vậy đệ tử xin được phép tiếp tục đưa ra ý kiến của mình để xin chư vị khai thị cho:

    1.Khi ta thực hành phép quán ấy, thì lẽ dĩ nhiên phải có người ngồi để làm cái việc ấy chứ? Chứ nếu đưa ra mà không có ai thực hành thì đưa ra làm gì? Vậy khi thực hành phép quán ấy thì có phải là “Cái Tôi” của mình quán hay chăng? Nếu không là “Cái Tôi” thì “AI’ là người làm việc ấy?

    2.Còn nếu “Cái Tôi” đang ngồi quán rồi “Cái Tôi” tự cho là mình đã chứng phép quán ấy rồi thì hóa ra chẳng đi đến đâu.

    3.Còn nếu nhờ người khác ấn chứng cho mình đã chứng đắc. Thì mình làm sao biết người ấy đã giác ngộ chưa mà nhờ? Thời nay thật giả khó phân hay là mình chỉ nhằm có cái nhìn nhận của đám đông mà thôi?

    4.Bởi vậy theo ngu ý của đệ tử, có phải chăng trước tiên ta nên giải quyết vấn đề “Tôi là ai?”

    5.Làm sao để có “việc làm” mà không có “người làm”? làm sao để có “cái biết” mà không có “người biết”. Bởi vì nếu mọi hành động dù là tu tập hay làm thiện đi nữa nếu làm bằng”Ngã” thì đều sinh nghiệp và phải chịu luân hồi .

    6.“Đối cảnh Vô Tâm mạc vấn thiền” Thì “Ai” đang đối cảnh? Nếu “còn Ai”thì sao “Vô Tâm” được? Còn nếu “Không còn ai” thì “Ai” biết đang “Vô tâm”?

    quán chiếu phân tích 6 căn, 6 trần, 6 thức là để tìm cái ngã ẩn trú nơi nào trong căn, trần, thức.
    Biết là vậy. Nhưng cái trí quán chiếu của người chưa giác ngộ thì lại bị ảnh hưởng của “tâm lý bầy đoàn”, ảnh hưởng của tâm trí nhị nguyên, nên không thể thấy như thị được. Vậy khi ấy quán chiếu sẽ không thấy đúng thực pháp mà lại thấy huyễn pháp thì làm thế nào? Khi ấy phải nhờ người khác ấn chứng cho. Mà cái người ấn chứng ấy làm sao biết là đã giác ngộ?

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Đệ tử xin thành tâm sám hối vì những lỗi phạm phải khi nêu kiến giải của mình.
    Đệ tử nguyện thành tâm và tỉnh giác cung kính chờ nghe những lời chỉ thẳng để y pháp phụng hành.
    Xin cầu chúc cho chư Tăng, chư Thiện Tri Thức và ngài TueUyen đây thân tâm thường an lạc Phật sự được viên thành.

  • Nếu đau thì đồng với phàm phu, không đau thì đồng với gỗ đá!
    (Lời của Tổ)



    Nếu Quán thì đồng với phàm phu, không Quán thì đồng với Tâm Trí!
    Quán mà không có Người Quán thì mới nên Quán Thập Bát Giới !

    Nương lời Tổ. Nay đệ tử ngu muội có kiến giải như vậy. Kính trình chư Tăng, chư Thiện Tri Thức trong mười phương cùng ngài TueUyen đây để xin tham vấn.

    Cầu chúc cho các ngài thân tâm thường an lạc Phật sự đựợc viên thành.

  • Đúng là quán thì đồng với phàm phu, vì là phàm phu cho nên cần tu tập, vì cần tu tập cho nên cần quán chiếu, có quán chiếu thì may ra kiếp này (hoặc những kiếp về sau ) liễu ngộ nên thoát kiếp phàm phu. Còn không quán thì muôn kiếp vẫn là phàm phu, sinh tử luân hồi luôn luôn chờ sẳn.

    Vì chẳng có ai sinh ra liền chứng đạo không cần tu tập!



    Đần giảng đạo cho Ngốc. Nó nói:
    -Này Ngốc, như có người học trò kia đến trường học mà lại treo bộ quần áo của mình ở đấy rồi bỏ đi chơi. Ông nghĩ thế nào. Qua hành động ấy, người học trò kia có vì thế mà trở nên thông tuệ hữu dụng cho xã hội chăng?
    -Thưa thầy không thể được.
    -Cũng thế, nếu cái “tướng” người tu ở chỗ tu mà “con người thật” của hắn không có mặt ở đấy. Theo ông thì người ấy có vì thế mà liễu ngộ để thoát sinh tử luân hồi hay chăng?
    -Thưa thầy không thể được.
    -Này Ngốc ông hiểu thế nào về câu nói của Tổ: “ Ngươi ngồi đấy mà sao ngươi không có mặt ở đấy”
    -Thưa thầy có nghĩa người học đạo ấy chỉ có cái thể xác ngồi đấy con mình thì lại “không nhận biết mình đang ngồi đấy”.  
    -Này Ngốc. Nếu có người học trò đi đâu cũng quá suy nghĩ về bài học ở trường, do vậy sẽ quên mất mình đang băng qua đường. Ông nghĩ xem người ấy có vì thế mà nguy hiểm chăng?
    -Thưa Thầy nhất thiết là bị nguy hiểm.
    -Tại sao thế?
    -Vì người học trò ấy đang mất nhận biết tỉnh giác do bị “bài học” lôi.
    -Này Ngốc, tu học cũng vậy. Phải luôn nhận biết tỉnh giác đừng để bị lôi. Cho dù cái nguyên nhân lôi ấy là thiện đi nữa. Cho nên người tu thiền phải nắm yếu chỉ: Phải luôn nhận biết mình đang nhận biết.
    -Thưa Thầy đối với việc “Quán Thập bát Giới” thì phải thế nào?
    -Này Ngốc, chỉ chăm chăm Quán thì sẽ lạc, mà phải luôn “nhận biết mình đang quán” thì mới được. Hềhề. . . Đừng để việc Quán Thập Bát Giới làm “mình vắng mặt” khi Quán.

    Mô Phật, câu chuyện vui trên là kiến giải của đệ tử về việc Quán Thập Bát Giới. Đệ tử kính trình chư tăng trong mười phương và chư thiện tri thức gần xa cùng ngài TueUyen đây để xin tham vấn.

    Cầu chúc cho chư vị thân tâm thường an lạc, Phật sự được viên thành.

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Đệ tử lòng thành cầu đạo nhưng văn tài kém cỏi, thế nào cũng phạm lỗi trong bài viết. Đệ tử thành tâm sám hối về tất cả những lỗi này.

  • Kinh Pháp Cú nói rằng:
    Niết bàn là hạnh phúc tối thượng!
    và:
    Vô ngã là niết bàn!

    Vì vậy muốn đạt đến hạnh phúc tối thượng thì phải đạt đến niết bàn, mà muốn đạt đến niết bàn thì phải thực chứng vô ngã.

    Bây giờ hãy thử tìm hiểu sơ về niết bàn, NIẾT BÀN LÀ GỈ?

    Dù dùng những từ ngữ hoa mỹ nào đi nữa như: - Hữu dư y niết bàn, - Vô dư y niết bàn, - Vô trụ xứ niết bàn, v.v...và v.v... thì khi nói đến niết bàn chúng ta cũng liên tưởng đến Ta la song thọ, nơi đức Phật Thích Ca, trút hơi thở cuối cùng, bỏ thân tứ đại, từ giả cõi đời này, mà thông thường chúng ta gọi là chết?

    Vậy có phải có phải chúng ta hiểu niết bàn đơn thuần là như vậy không?

  • Cảm ứng từ bài viết trên:

    Kinh Pháp Cú nói rằng:
    Niết bàn là hạnh phúc tối thượng!
    và:
    Vô ngã là niết bàn!


    Thế nào là “Tối thượng”?
    Phải chăng nó chỉ về cái hướng xa xăm bất tư nghì, vô lượng vô biên, phi đặc tính và phi nhân cách.
    Như vậy hóa ra Kinh Pháp Cú nói mà như không nói, vì Niết bàn là “bất tư nghì”!
    Vậy với câu “Niết bàn là hạnh phúc tối thượng” của kinh Pháp Cú.
    Kinh không nhằm xác định giới hạn và các đặc tính thuộc phạm trù khái niệm của tâm trí. Mà Kinh cho rằng “Niết bàn” là cái không thể sở đắc! Mà chỉ có thể từ cái hạnh phúc bình dị của chúng sanh tiến. . .tiến mãi. . . về phía vô cùng vô tận. . . về cái hạnh phúc vẫn còn có thể  thăng hoa mãi. . . .mãi. . .!

    Thế nào là “Vô ngã”?
    Hiện tại chúng ta đang còn “Ngã”, đang còn trong giới hạn của tâm trí và khái niệm. Nên không thể nào biết “Vô ngã” là gì ?Cho dù chúng ta có “Đọc tụng” kinh Phật, nghe lời giảng của chư vị chứng ngộ, chúng ta cũng sẽ hiểu qua lăng kính của “Ngã”. Nên “Vô ngã” thật sự là “bất tư nghì”. Bởi vậy Kinh Pháp cú nói mà như không nói!
    Tuy nhiên Phật giáo là “bất nhị” cho nên “Vô ngã” không phải là “cái “Không Tôi” đối lập với cái “Tôi”. Mà là “Như Lai”vượt ra khỏi phạm trù đối đãi của “Tôi” và “Không Tôi”!
    Mô Phật! Nó là phi tâm trí nên không thuộc phạm trù của nhị nguyên luận.

    Vì vậy muốn đạt đến hạnh phúc tối thượng thì phải đạt đến niết bàn, mà muốn đạt đến niết bàn thì phải thực chứng vô ngã.


    Niết bàn là cái bất tư nghì và phi đặc tính làm sao “Đạt” làm sao “Thực chứng”?!
    Chỉ có thể tiến mãi. . . tiến mãi. . . .đến vô cùng tận. Chứ làm gì có điểm để dừng để chứng!
    Cái mà có thể đạt, có thể chứng, chỉ là bờ mé của niết bàn và vô ngã!

    Khi nói đến niết bàn chúng ta cũng liên tưởng đến Ta la song thọ, nơi đức Phật Thích Ca, trút hơi thở cuối cùng, bỏ thân tứ đại, từ giả cõi đời này, mà thông thường chúng ta gọi là chết?


    Không ai nghĩ như vậy cả !!!

    Lời nói này có nghĩa gì? Đấy nghĩa là niết bàn là sự giác ngộ hay thành đạo hay chứng đạo.


    Không phải vậy!
    Như người kia bi bệnh mù mắt từ nhỏ. Mọi người nói về mặt trời chiếu sáng hắn không tin. May được thầy thuốc chửa cho lành mắt. Khi thấy mặt trời hắn bèn nói: “Do ta mở mắt mặt trời mới xuất hiện”
    Cũng vậy không phải “Giác ngộ” là “Niết bàn”!
    Giác ngộ là “hành động mở mắt” còn mặt trời “ Niết bàn” là bản thể thì luôn có đấy, như như, bất nhiểm, vô thủy vô chung, chẳng sinh ra mà cũng chẳng mất đi bao giờ!

    Tức là niết bàn có nghĩa là không xiềng xích, không trói buộc hay là giải thoát, tự do, tự tại.


    Không nên “chấp ngữ”!
    Không nên chấp vào từ nguyên của Niết Bàn để định nghĩa Niết Bàn là gì!
    Ngôn ngữ chỉ là “ngón tay chỉ, chứ không phải mặt trăng”!
    Như người kia bị gai đâm vào chân nên : “Khổ”. Bây giờ người ấy “ y pháp” để nhổ gai ra, nhờ vậy mà hết đau, nhờ vậy mà hết khổ, nhờ vậy mà giải thoát khỏi cái khổ gai đâm. Nhưng đấy chỉ là cái “giải thoát” đối lập với “khổ”! Thuộc về tâm trí nhị nguyên của chúng sanh không phải của bậc chứng ngộ.
    Còn “Niết bàn” như là người chưa hề bị gai đâm nên không có cái cảm giác “giải thoát”!
    Lúc mới nhổ gai khỏi bàn chân, người ấy “giải thoát” và rất sung suớng! Nhưng sau đấy một thời gian dài. Người ấy quên mất cái sung sướng khi nhổ gai ra, quên mất “giải thoát”, người ấy tự nhiên như chưa hề bị gai đâm, người ấy bình thường, thì khi ấy mới là “niết bàn”!

    Cho nên TAM PHÁP ẤN mà chúng ta thường nghe đến là:
    - Khổ - Vô thường - Vô ngã


    Đây là con đường của Tiểu Thừa, khi nhìn sự việc ở hiện tượng (tướng).

    Còn:
    -Thường – Lạc – Ngã – Tịnh
    Lại là con đường của đại thừa, khi nhìn sự việc ở bản thể (Tánh).

    Thật ra 2 quan điểm này không hề mâu thuẩn hoặc trái ngược nhau mà trái lại còn bổ túc cho nhau để có cái nhìn toàn diện. Đều là những con đường đi về phía chân lý.

    Tam pháp ấn cải biên của đạo tràng Mai Thôn:
    -Vô thường – Vô ngã- Niết Bàn


    Là đi từ hiện tượng xuyên tới bản thể.

    Thật ra cũng chẳng có gì mới!
    Là ngón tay chỉ trăng, thì thay tay mập hay tay ốm, tay da đen hoặc tay da trắng thì cũng chẳng quan trọng gì!
    Quan trọng là phải chỉ đúng mặt trăng chứ không phải cái bóng dưới nước mà mình tưởng là mặt trăng!

    Niết bàn là một trạng thái của tâm, trạng thái khi một chúng sinh không bị lừa dối hay không bị ảnh hưởng bởi vòng luân hồi (tự tại với sinh tử luân hồi)


    Khi nói “Niết bàn là một trạng thái của tâm. . .” thì là “tâm” nào?
    Tâm là tâm lý hay tâm là bản thể?!
    Nếu tâm là tâm lý, thì tâm lý có giới hạn làm sao chứa cái vô giới hạn là “Niết bàn”!
    Nếu tâm là bản thể, thì chính Niết Bàn là Tâm chứ không phải là “trạng thái của Tâm”!

    Nói : “Niết bàn là một trạng thái. . . .thì phải xem lại?!
    Như nước sạch chỉ có một dạng. Con nước bẩn thì mới có nhiều dạng.
    Niết Bàn là Niết bàn. . .và không phải là Trạng Thái!
    Trạng thái chỉ có khi so sánh với các trạng thái khác! Mà niết bàn thì phi đặc tính làm gì có trạng thái khác mà so sánh?!
    . . . . .

    Hềhề. . .!
    Đây là những lời tán dóc cho vui lúc uống trà. Chứ hơi đâu mà bàn việc tào lao cho mệt:

    Ta cũng vì ham vui mà tới đây!
    Uống trà đi!
    Uống xong rồi đi chơi
    Làm cũng chơi
    Tu cũng chơi
    Ăn cũng chơi
    Uống cũng chơi
    Ngủ nghĩ cũng chơi
    Chơi cũng chơi
    Không chơi cũng chơi
    Nếu nhở có thành Phật thì cũng để chơi thôi mà!
    Haha. . .ha!
    Ta đi đây!

    Bảy Xị/25/7/2008