Ứng dụng Tây Du Ký trong việc luyện Khí.

Tôi rất thích tác phẩm Tây Du Ký. Chẳng những văn chương trác tuyệt mà ý đạo thật sâu xa. Dù đã dụng công nghiên cứu tim tòi nhưng vẫn chưa mãn nguyện. Lại nữa có quá nhiều sách bàn về Tây Du Ký, nhưng thường ý kiến rất khác nhau, khiến tôi hoang mang. Năm vừa rồi tôi có có tập Khí Công Dưỡng Sinh và đã đắc khí. Tôi man máng thấy hình như Tây Du Ký có nhiều điểm có thể ứng dụng trong việc luyện khí. Không biết tôi nghĩ như vậy có đúng không, bạn nào biết phát tâm chỉ dạy thì thật quí hoá?
Tớ xin đi pha trà chờ bạn nào có nhã hứng thì mời đến cùng vui ?
  • TÂY DU KÝ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN HÀNH THIỀN

    Bài 3:  Tề Thiên xuống Thủy Cung và U Minh Giới.

    B/ Tượng trưng cho giai đoạn: điều khí qua Mệnh môn và Tinh Khí Thần hợp nhất ở đan điền khí là Tâm Du + Đản Trung:

    I/ Công năng sau khi học đạo trở về:

     Học đạo trở về (Năng lượng của thể thứ 2): Hình ảnh Tề Thiên sau khi học đạo trở về đứng giữa bầy khỉ. Tượng trưng cho năng lượng của thiền nhân ở thể thứ nhì là thể vía. Qua kỹ thuật thiền động (Bramacharya), năng lượng dục (Tinh) đã được  thăng  hoa  thành  dạng  năng  lượng thanh tịnh gọi là Khí. Năng lượng cơ bản thay vì tạo ra  các đòi hỏi bản năng khiến thiền nhân loạn tâm. Lại trở thành phương tiện hiệu quả để thực chứng giác ngộ.

    Pháp Cân đẩu vân của Tề Thiên: (Kỹ thuật dùng ý điều khí): Tề Thiên dùng ý đi đến bất kỳ nơi nào, lập tức xuất hiện đám mây lành đưa đến nơi dấy trong khoảnh khắc. Hình ảnh này tượng trưng cho kỹ thuật dùng ý điều khí trong thiền động. Thiền nhân phải có khả năng điều khí đến bất kỳ nơi nào trên cơ thể mình để tự trị bệnh và hành công tu tập. Đây là điều kiện tối cần thiết. Nếu Tề Thiên không có khả năng này thì nhất định không thể lên Thiên Đình, xuống địa ngục, xuống Long Cung, về cõi Phật được... Tương tự như vậy nếu thiền nhân không có khả năng làm chủ luồng năng lượng thăng hoa của mình, nhất định không thể tu chứng lên các bậc cao hơn được.

    Pháp thân của Tề Thiên:(Kỹ thuật tùy duyên hiển tướng): Tề Thiên  có thể phân thành vô sở các biến hình thành bất kỳ thứ gì. Đây là 72 phép thần thông mà Tề Thiên đã học được từ Tổ Sư Bồ Đề. Hình ảnh này tượng trưng tính vô tướng, không trụ tướng của thiền nhân. Chẳng những vậy thiền nhân còn phải tùy duyên hiển tướng. Trong giai đoạn thiền động, khi thiền nhân đắc khí. Năng lượng siêu nhiên này sẽ tác động để cơ thể tự xuất hiện các biểu hiện vận động và tâm lý thích ứng với bệnh lý, thể lực, học cụ đang sử dụng, môi trường tập luyện... Nghĩa là tùy hoàn cảnh thực tiễn thường trụ khí để năng lượng tự hoạt dụng thích hợp với bán chất sự việc. Đây là khả năng bắt buộc nếu thiền nhân thật sự muốn tu tập theo con đường trung đạo: vừa tu vừa hành, đạo đời song tu, hiển mật viên thông, lý sự viên dung, phối hợp ý thức và vô thức để thực chứng siêu thức...

    Tề Thiên xuống Thủy Cung ( Khai mở luân xa 3): Thủy Cung tương ứng với luân xa 3 (Swadhísthana).Hình  ảnh Tề Thiên xuống Thủy Cung tượng trưng cho giai đoạn nội hỏa (Kundalini) đã thăng hoa  đến luân xa 3 (theo Yoga). Hoặc khí âm của huyệt Thần Khuyết giao hòa với khí dương của huyệt Mệnh Môn (theo khí công). Phong cảnh diễm lệ với lâu đài, tiên nữ, binh tôm tướng cá. Tượng trưng cho cảm giác an lạc thiền, các linh ảnh, âm thanh, vọng niệm và huyễn cảnh trong tâm thức thiền nhân. Cũng như Tề Thiên  khi xuống Long Cung cũng không nên mê muội trước rượu ngon, gái đẹp, phong cảnh hữu tình... Chỉ một mực đòi cho được binh khí (tượng trưng cho phương tiện tu tập và thành đạo của thiền nhân) và áo giáp (tượng trưng cho giới luật bảo vệ cho thiền nhân không sa vào đường ác). Trong cơn thiền định, thiền nhân tuyệt đối không được trụ vào an lạc thiền hoặc các huyễn cảnh của tâm thức. Mà phải luôn luôn trụ vào nhất niệm, và giữ được giới luật, không phan duyên theo sự cám dỗ của các huyễn cảnh này. Nếu không định tâm được như thế, thiền nhân rất dễ sao vào tà đạo.

    Gậy như ý của Thủy Cung (Công phu nhất niệm): Tượng trưng cho nhất niệm (chánh định) của thiền nhân lúc thiền định. Ở giai đoạn này thiền nhân chưa đạt tâm không nên cần phải trụ vào một chánh niệm để định tâm gọi là nhất niệm. Nhất niệm này thường là một câu niệm Phật. Nên công phu này còn được gọi là "Niệm Phật tam muội". Cây cột này không ai sử dụng được. Trái lại Tề Thiên bảo nó: lớn, nhỏ, dài, ngắn... thậm chí bé như cây kim để gài vào tai đều được như ý. Sau này nó là món bửu bối lợi hại nhất. Được Tề Thiên sử dụng trừ tà diệt quỷ bảo hộ thầy đi thỉnh kinh thắng lợi. Bởi vậy nó còn có tên là Như Ý Kim Cang. Điều này tượng trưng cho công phu nhất niệm (hay niệm Phật tam muội) chỉ ở thể thực chứng khi thiền nhân thực hành trong tình trạng đắc khí với toàn bộ năng lượng sống của mình và với một độ định tâm khá cao. Nếu chỉ niệm Phật ngoài đầu môi chót lưỡi để cầu lợi thì nhất định hoại công và vô ích.

    Tề Thiên ngồi trên ngai Long Vương (Khai  luân xa 3, thể nhập thân thứ 3): Hình  ảnh  Tề Thiên ngồi trên ngai Long Vương. Tượng trưng cho nội hỏa đã khai mở luân xa 3 (Swadhisthana). Thiền nhân thể lập trạng thái thân thanh tịnh thứ 3.

    Tề Thiên mặc áo giáp, cầm thiết bản (Khả năng của thiền nhân tại thân thứ 3): Hình ảnh Tề Thiên mặc áo giáp và cầm thiết bản. Tượng trưng cho thiền nhân sau khi thực chứng trạng thái thiền của thể thứ 3, luôn được bảo vệ bởi giới luật và có phương tiện thiện xảo là công phu nhất niệm.

    Xuống Thủy cung trở về: Tượng  trưng  cho năng lượng của thiền nhân tại luân xa 3. Đến giai đoạn này, ngoài pháp Cân Đẩu Vân và 72 phép thần thông biến hóa. Tề Thiên còn được thêm Như ý Kim Cang côn và áo giáp. Hình ảnh này tượng trưng cho thiền nhân sau khi khai mở luân xa 3, phải thực chứng một số khả năng sau: Dùng ý điều khí, tùy duyên hiển tướng, phương tiện thiện xảo, giữ được giới luật trong lúc thức cũng như trong cơn thiền định.

    Nhất trụ kình thiên: Tề Thiên làm phép cho cây kim cang như ý vươn lên mãi đụng đến Thiên Đình, thọc xâu xuống mãi đụng đến âm ty địa ngục. Hình ảnh này tượng trưng cho giác tánh của thiền nhân nếu được phát triển không ngừng sẽ có công năng chấn động càn khôn, là phương tiện thiện xảo đưa đến bờ giác ngộ. Giác tánh của Như Lai có một. Nhưng phương cách vận dụng tùy lúc thay đổi theo mức độ tu chứng của thiền nhân. Có khi trụ vào chánh niệm để tiêu dung vọng niệm. Có khi trụ vào cái tịnh để làm chứng nhân cho mọi vọng động. Có khi trụ ở Phật hiệu để phát triển tâm từ diệt trừ các ác niệm... Đến giai đoạn này thiền nhân phải dùng công phu nhất niệm để gia tăng định tâm nhằm thăng hoa nội hỏa (khí) lên đến (Đại chùy + Thiên Đột) hay luân xa 5. Cũng có nghĩa thiền nhân phải dùng công phu niệm Phật tam muội để thăng hoa năng lượng đồng thời đi sâu vào thiền định. Để có thể từ chánh định tiến về lại định là trạng thái thực chứng của người khai mở được luân xa 5. Đạt Ngã không, kết thúc trạng thái nhất nguyên của tâm thức.

    Hình ảnh Tề Thiên xuất hồn theo quỷ sứ đến U Minh giới. Tượng trưng cho nội hỏa  (Kundalini) đã thăng hoa đến luân xa 4 (Anahata),  hay khí âm của huyệt Đản Trung giao hòa cùng khí dương của huyệt Tâm Du tại Đan Điền Khí. Trong cơn thiền định, thiền nhân thể nhập trạng thái thiền thứ 4. U Minh giới với quỷ sứ, âm ty địa phủ, Phán Quan, Thập Điện Diêm Vương ... tượng trung cho huyễn cảnh trong tâm thức thiền nhân lúc thiền định ở trạng thái thứ 4. Hình ảnh Tề Thiên mình mặc giáp trụ, tay cầm Như ý kim cang côn đánh thắng tất cả quỷ sứ ở địa phủ, thu phục Phán Quan và thập Điện Diêm Vương tượng trưng cho thiền nhân ở giai đoạn này do công phu nhất niệm đã vững chắc, do đã quen trụ vào giác tánh làm chứng nhân cho mọi biến hiện sinh diệt trong tâm lúc ý thức cũng như trong cơn thiền định. Nên giờ đây thiền nhân hoàn toàn có khả năng trụ vào công phu nhất niệm (chánh định), diệt trừ mọi ác niệm, giữ được giới luật cả trong lúc vô thức (lúc ngủ). Toàn bộ quá trình Tề Thiên xuống Địa phủ chiến thắng trở về đã minh họa một cách sâu sắc tiến trình tập khí công trong giấc ngủ và khả năng thiền nhân có thể thường trụ chánh niệm. Nghĩa là luôn giữ được giới luật, luôn trụ được vào giác tánh không phan duyên theo vọng niệm trong cả 3 trạng thái: lúc thức, lúc thiền định và lúc ngủ. Đạt tình trạng này thiền nhân được gọi là người tỉnh giác. Nghĩa là người thực.

    Nếu chấp nhận khái niệm, thực nghĩa là lúc mới biểu hiện đều do ý thức ta làm chủ. Còn ngủ là lúc mọi biểu hiện của cơ thể đều là vô thức ta không thể làm chủ được. Thì đối với thiền, người ta chỉ có thể ở một trong hai trạng thái: thức hay ngủ. Người đã thức thì không bao giờ ngủ. Vì ngay trong giấc ngủ vẫn tỉnh giác, họ vẫn làm chủ bản thân chống lại mọi ác niệm. Ngược lại nếu người ấy còn ngủ thì thật sự họ chưa thức bao giờ. Vì lúc được gọi là thức, thực sự họ vẫn làm một cách vô thức cho những đòi hỏi bản năng. Họ không có ý muốn riêng, quan điểm riêng, lối sống riêng và nhu cầu đích thực của con người thật. Họ chỉ bắt chước ý muốn kẻ khác một cách vô thức, họ chỉ lập lại quan điểm của kẻ khác một cách vô thức, cả đời họ chỉ lao vào thỏa mãn những nhu cầu giả tạo mà xã hội và kẻ khác đã áp đặt một cách vô thức vì cứ tưởng là nhu cầu của mình. Thương thay!... người ấy thật sự chưa bao giờ cả. Lúc được gọi là thức, thực ra họ đang ngủ mở mắt mà thôi!

    Tề Thiên thu phục Diêm Vương: Diêm Vương là chủ của cõi Âm (Vô thức). Hình ảnh Tề Thiên thu phục Diêm Vương, minh họa cho trạng thái năng lượng của thiền nhân lúc khai mở luân xa 4. Nó cũng minh họa trạng thái tâm thức chánh định trong vô thức của thiền nhân. Hai trạng thái tâm thức của người tỉnh giác.

    Tề Thiên xóa sổ sinh tử (Dứt vọng niệm, đắc an lạc thiền): Hình ảnh Tề Thiên thu phục Phán Quan và Diêm Vương, xóa sổ sinh tử của dòng họ khỉ. Tượng trưng cho nội hỏa sau khi thăng hoa đến luân xa 4 (Anahata). Hoặc Tinh Khí Thần đã hợp nhất tại Đan Điền Khí. Trạng thái nhị nguyên của tâm thúc chấm dứt. Thiền nhân đạt trạng thái tâm thức nhất nguyên. Đó là giai đoạn tâm luôn chánh định và một nhất niệm. Thiền nhân không còn bị khổ đau vì luôn phan duyên theo sự sinh thành biến diệt của các vọng niệm nữa. Thay vào đó thiền nhân thọ dụng được hạnh phúc của trạng thái an lạc thiền. Bởi vậy nên được gọi là thoát vòng sinh tử.

     

     

     

     

  • TÂY DU KÝ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN HÀNH THIỀN

    Bài 4 :                                   Đại náo Thiên Cung.

    C/ Giai đoạn thiền tịnh: thiền nhân thực chứng chánh định

    I/ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Thiên Đình: (Cái TÔI chủ trì tâm chánh định).

    Hình ảnh Ngọc Hoàng Thượng Đế tượng trưng cho cái Tôi chủ trì sự chánh định của thiền nhân. Từ cái tâm vô minh của chúng sanh thường nô lệ cho ác niệm, nên tạo nhiều đau khổ. Người tu định tâm thấy được thiện ác đúng sai, nên khuyến thiện trừng ác. Sau đó trụ vào một nhất niệm là thiện niệm. Khi thiện niệm này choán đầy tâm thức khiến không một ác niệm nào có thể khởi sinh, gọi là đạt chánh định. Cho đến giai đoạn này thiền nhân luôn phải dùng ý thức để tu tập. Tình trạng chánh định bằng ý thức này được minh họa trong Tây Du Ký qua nhân vật Ngọc Hoàng Thượng Đế. Nhân vật này cũng tượng trưng cho hóa thân của thiền nhân khi nội hỏa (khí) thăng hoa đến luân xa 5 (Vishusdda). Đó cũng là cái tôi chủ trì tâm thức trong cơn thiền định, khi thiền nhân thể lập trạng thái thiền thứ 5. Ngọc Hoàng Thượng Đế là nấc thang chót của thiền Tịnh mà thiền nhân bắt buộc phải vượt qua để lập đại định (Samadhi) lần thứ nhất, thực chứng ngã không. Hình ảnh Thiên Đình với Thiên binh Thần tướng, với các vị Tiên, với lâu đài, điện phủ huy hoàng tráng lệ .... tượng trưng cho trạng thái an lạc thiền và huyễn cảnh trong tâm thức thiền nhân khi thực chứng trạng thái thường trụ chánh định. Nghĩa là khi năng lượng đã thăng hoa đến luân xa 5 (theo Yoga). Hay khi khí âm của huyệt Thiên Đột giao hòa với khí dương của huyệt Đại Chùy (theo khí công và tiên đạo). Tình trạng chánh định sẽ làm tâm ý thức đứng yên không chao đảo. Do đó hình ảnh và âm thanh từ giác quan đưa vào hiện rõ rệt hơn, tinh tế hơn. Thiền nhân sẽ có sức cảm nhận tốt hơn trung thực hơn trước, nên gọi là Thuận Phong Nhĩ và Thiên Lý Nhãn. Hình ảnh Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ xem xét việc trần gian rồi báo cho Ngọc Hoàng Thượng Đế biết, minh họa rất rõ quá trình hình thành ý thức. Theo đó do ngũ căn tiếp xúc, thọ nhận sắc trần tạo ra tiền ngũ thức. 5 thức này tổ hợp lại thành ý thức. Ý thức phát triển thành mạt na thức. Sau đó các kinh nghiệm tạo thành được cất giữ trong Tạng thức (thức thứ 8). Khi có một tác nhân cảm thọ, tác nhân này sẽ được so sánh với các kinh nghiệm của tạng thứ để tâm thức đưa ra quyết định chung cuộc. Quá trình này hình thành tâm thức nhị nguyên và cái tôi. Bởi vậy trong thiền, ý thức đồng nghĩa với vô minh, vì bản chất hiện tượng thông qua lăng kính nhị nguyên của nó trở thành sai lệch không như thật. Do vậy sẽ đưa đến hành không như thật. Đó là nguyên nhân của sự khổ. Bởi vậy thiền nhân muốn đạt giác ngộ nhất thiết phải vượt qua ý thức, dù đó là ý thức đã thăng hoa thành tâm chánh định (xiềng sắt hay xiềng vàng, tội nhân vẫn bị câu thúc). Làm như vậy nhằm diệt cái tôi giả tạo của mình, để tiến về trực giác siêu thức là trạng thái Bát Nhã Ba La Mật Đa của tâm không tịch lặng phản ánh như thật. Tây Du Ký minh họa việc này qua hình ảnh Tề Thiên đại náo thiên cung.

    II/ Quán niệm:

    Tề Thiên lên Thiên Đình: Tượng trưng cho nội hỏa (khí) đã thăng hoa đến luân xa 5. Thiền nhân chấm dứt trạng thái tâm thức nhị nguyên của giai đoạn thiền động (từ luân xa 1 đến luân xa 4). Để chuyển sang trạng thái tâm thức nhất nguyên của thiền tịnh. Nhằm tiêu dung chủng thức đạt chánh định. Để sau đó tiến tới tâm không nhập đại định (samadhi) lần thứ nhất, thực chứng ngã không.

    Hình ảnh ngựa của Thiên Đình, tương trưng cho vọng niệm của thiền nhân khi bắt đầu bước vào trạng thái thiền thứ 5. Nghĩa là khi nội hỏa đã thăng hoa vượt qua luân xa 4. Trạng thái tâm thức nhị nguyên bắt đầu chuyển hóa để trở thành nhất nguyên (luân xa 5). Khi ấy tâm bất định với vọng niệm trở thành chánh định với nhất niệm. Trong kỹ thuật thiền tịnh của bản môn. Để tạo ra bước phát triển tâm thức như trên, thiền nhân phải lần lượt thực chứng các pháp môn sau: quán niệm, quán không, trung quán song chiếu, tâm không và nhập định (Samadhi). Hình ảnh Tề  Thiên trong giai đoạn đầu tiên mới lên Thiên Đình, giữ nhiệm vụ cai quản đàn ngựa trời, minh họa rất rõ giai đoạn đầu tiên của thiền tịnh. Thiền nhân phải tập làm chủ ý nghĩ của mình, tập từng bước làm chủ tâm thức mình. Bài tập đầu tiên, thiền nhân phải tập là trụ vào giác tánh của mình, làm chứng nhân cho mọi vọng niệm trong tâm thức. Không để cho các niệm này lôi đi, cũng không phát ý muốn diệt chúng. Như sương tan dưới ánh mặt trời, vọng niệm sẽ tự tiêu dưới ánh sáng của giác tánh, khi thiền nhân trở thành chứng nhân cho chính tư tưởng của mình.

    Hình ảnh Tề Thiên chăn ngựa, tượng trưng cho giai đoạn thiền nhân quán niệm. Tập làm chủ các ý nghĩ của mình. Còn hình ảnh Tề Thiên điều khiển được ngựa, tượng trưng cho giai đoạn thiền nhân thực chứng pháp môn quán niệm. Độ định của tâm ngày càng cao hơn.

    III/  Quán Không:

     

    Tôn Ngộ Không sau khi làm Bật  Mã Ôn, về Hoa Quả Sơn tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh. Được Thiên Đình chấp thuận chức danh và cho xây phủ Tề Thiên ở Thiên Đình. Hình ảnh cờ hiệu Tề Thiên Đại Thánh tung bay tại Hoa Quả Sơn và Thiên Đình minh họa rất rõ giai đoạn nội hỏa đã thăng hoa từ luân xa 1 đến luân xa 5. Nên tiềm năng của luân xa 5 hiển thị sáng lạng trong đời sống tâm thức của thiền nhân. Cái tôi chánh định vươn lên để dần dần thống lĩnh tâm thức, khiến thiền nhân từng bước không còn bị phan duyên bởi những vọng niệm về bản năng lẫn những niệm phức tạp của tâm thức nhị nguyên là dạng thăng hoa của tâm thức bản năng. Hình ảnh Tề Thiên làm quan chỉ có chức danh nhưng không giữ nhiệm vụ nào tượng trưng cho giai đoạn thiền tịnh Quán Không. Đến giai đoạn này thay vì quán sát các niệm đang vẫn đọng trong tâm thức. Thiền nhân trụ vào giác tánh trở thành chứng nhân quan sát các khoảng không trong tâm hồn mình. Đó là khoảng giữa 2 niệm. Đó là khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi khi tâm thức nghỉ ngơi, không bị giằng xét bởi lưỡi dao vọng niệm cọ xát vào da thịt của nội tâm mình.

    IV/ Trung Quán Song chiếu:

    Tề Thiên kết bạn với các vị Tiên và Tinh tú trên trời: Hình ảnh Tề Thiên làm quan không giữ nhiệm vụ gì, suốt ngày chỉ rong chơi kết bạn với mọi người. Tượng trưng cho giai đoạn Trung Quán song chiếu. Thiền nhân khi ấy trở thành giác tánh của mình chẳng những làm chứng nhân cho các ý niệm trong tâm. Mà còn chứng kiến được những khoảng trống trong tâm hồn mình. Dòng sông ý niệm trong tâm thức dường như chảy chậm lại. Khoảng trống giữa các ý niệm sẽ ngày càng nhiều hơn và dài hơn. Các đám mây tượng trưng cho niệm, khoảng trời xanh không mây tượng trưng cho Không. Thiền nhân như người nhìn trời, thấy cả mây bay lẫn nền trời xanh.

    V/ Vượt khỏi những giới hạn của cái tôi chánh định để thể nhập giác tánh vô giã chí thiện của Như Lai:

    Thiên  Đình tượng  trưng cho tâm  chánh  định,  Thiên binh, Thần  tướng  và các quan tượng trưng cho những giới hạn của cái thiền nhị nguyên. Ngọc Hoàng Thượng Đế tượng trưng cho cái thiện hữu hạn. Vì chân lý khi được phóng chiếu qua lăng kính của cái tôi, liền bị quy định bởi những quan niệm, định kiến, nhân sinh quan, ý thức hệ về nhất niệm được dùng làm phương tiện cho chánh định... Bởi vậy thiền nhân muốn trở thành bậc giác ngộ hoàn toàn, nhất định phải từng bước vượt qua những rào cản của cái tôi, dù cái tôi đó là cái tôi chánh định. Để cuối cùng thực chứng trạng thái vô nghã thể nhập với cái chí thiện là bản thể của sự vật. Tề Thiên Đại Thánh tượng trưng cho năng lượng sống liên tục thúc đẩy cái thiện hữu hạn tiến về cái chí thiện vô hạn (thành Phật). Bởi vậy Tề Thiên phải liên tục chiến đấu chiến thắng Thiên binh, Thần Tướng, phá hội Bàn Đào, đại náo Thiên Đình, muốn dụng tâm truất ngôi của Thượng Đế, để sau cùng bảo hộ thầy đi về đất Phật, gặp Phật và được thành Phật (hiệu là Đấu Chiến Thắng Phật).

    Sau đây là một số hình ảnh gợi ý về sự liên tưởng này:

    Thọ hưởng an lạc thiền khi định thành chánh định, tâm nhị nguyên thành nhất nguyên. Nội hỏa tiến đến cực điểm của Tiên đạo, nên gọi là luyện thành Tiên đan hay được uống Tiên đan (Giả kim thuật).

    Do tâm chánh định, thiền nhân diệt trừ được huyễn cảnh trong tâm thức.

    Lên Thiên Đình ăn Đào Tiên, uống Linh Đan trở về: Hình ảnh Tề Thiên lên Thiên Đình ăn đào Tiên, uống Linh đan trở về. Tượng trưng năng lượng dục đã thăng hoa thành năng lượng thanh tịnh ở trạng thái thiền thứ 5 (khai mở luân xa 5, thực chứng tâm chánh định). Đến giai đoạn này thiền nhân phải thực chứng một số công năng sau: Dùng ý điều khí, công phu niệm Phật tam muội, giữ được giới luật trong cả 3 trạng thái: ý thức, thiền thức (trong cơn thiền định) và vô thức (trong lúc ngủ), khai mở luân xa 5, thực chứng tâm chánh định. Từ trạng thái nhị nguyên tâm thức tiến về nhất nguyên, đắc an lạc thiền.

    VI/ Phá Ngã: ( Diệt trừ cái Tôi)

    Đến lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân: Hình ảnh Tề Thiên đến lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân, tượng trưng cho nội hỏa (khí) đã thăng hoa trong kênh sushuma đến luân xa 5 (vishusdda). Hay khí âm của huyệt Thiên Đột giao hòa với khí dương của huyệt Đại Chùy. Thiền nhân thể nhập hóa thân thứ 5.

    Tề Thiên bị đốt trong lò luyện Đan: Hình ảnh Tề Thiên bị đốt trong lò luyện đan tượng trưng cho năng lượng dục đã thăng hoa thành nội hỏa. Tâm chánh định của thiền nhân giúp cho tinh khí thần hợp nhất. Bởi vậy nội hỏa cháy mạnh tại luân xa 5. Năng lượng dục được trui rèn tại đây. Tâm thức nhị nguyên với bản năng dục tiềm ẩn được trui rèn để trở thành tâm chánh định hợp nhất âm dương (thái cực).

    Lão Quân phát công đốt Tề Thiên trong lò luyện đan: Lửa trong lò luyện đan tượng trưng cho nội hỏa (nội khí). Thái Thượng Lão Quân phát công tượng trưng cho kênh năng lượng vũ trụ mà thiền nhân đang giao hòa vận dụng (ngoại khí) Kỹ thuật luyện công vượt qua luân xa 5,  cần phải hợp nhất với nội hỏa và kênh năng lượng vũ trụ thích ứng trong trạng thái tâm thức chánh định.

    Hình ảnh Tề Thiên đập ngã lò luyện đan, tượng trưng cho giai đoan thiền nhân vượt qua luân xa 5 để tiến về luân xa 6 (Ajna). Từ  cái tôi chánh định tiến lên thực chứng ngã  không. Nhờ bị đốt trong lò luyện đan nên khi ra khỏi lò Tề Thiên đắc kim thân kim nhãn. Điều này tượng trưng cho thiền nhân khi khai mở luân xa 5, công năng tăng tiến nên cơ thể cường tráng khỏe mạnh. Bởi vậy có thể vượt qua mọi khó khăn gian khổ trên con dường tu tập thành đạo. Tâm đạt thế chánh định, nên trí huệ ra tăng. Nhận định và xử lý tình huống chính xác hơn, nên việc hành đạo tu tập chóng đạt kết quả hơn.

    Đại náo thiên cung: Tề  Thiên đại náo Thiên cung, tượng trưng  cho việc thiền nhân phải phá vỡ các phạm trù hữu hạn của cái tôi chánh định. Diệt trừ cái tôi giả tạo, thể nhập trạng thái chân không thường trụ tịch lặng của trực giác siêu thức là Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita) .  Đây là giai đoạn thiền nhân phải can đảm vứt bỏ phương tiện nhất niệm, vứt bỏ các hình tướng mà bao lâu nay đã giúp thiền nhân thực chứng chánh định (Qua song bỏ bè).

    Hình ảnh Tề  Thiên ngồi trên ngai Thượng Đế và Ngọc Hoàng Thượng Đế phải trốn chạy. Tượng trưng cho tâm chánh định hoàn toàn thống lĩnh tâm thức và nội hỏa đã khai mở luân xa 5. Thiền nhân đến giai đoạn này có thân thể khỏe mạnh, cường tráng, có công năng tốt, tâm không nghĩ đến điều ác, thân không làm điều ác. Nhưng mọi hoạt động đều xoay quanh cái tôi của mình, không cầu lợi nhưng cầu danh, còn muốn mọi người suy tôn ca ngợi, còn ngã mạn, tâm từ chưa phát triển nên không thể chấp nhật các quan điểm ngược với mình. Trong thiền, đây là trở ngại vô cùng lớn lao mà thiền nhân nhất định phải vượt qua, nếu thật sự muốn chứng giác ngộ (đại náo Thiên Đình).

    VII/ Thực chứng Ngã Không: (Nhập đại định lần thứ nhất đắc vô ngã)

     

    Tề Thiên Đại Thánh và Phật Tổ

    Tề Thiên tượng trưng  cho năng lượng vận hành của tâm thức nhị nguyên, hay cái biết hữu hạn của ý thức. Phật tổ Như Lai tượng trưng cho bản thể tuyệt đối của vạn pháp, hay trí tuệ tối thượng không ngằn mé của trực giác siêu thức. Đó là tự nhiên trí của chư Phật luôn phản ánh như thật mà không phan duyên mọi sắc tướng của pháp giới.

    Bàn tay của Như Lai tượng trưng cho một phạm trù tương đối của cái Dụng. Đó là một phạm trù bất kỳ của bản thể hiển thị. Việc Tề Thiên tự phụ vào thần thông, đánh cược với Phật Tổ Như Lai minh họa đặc tính của chúng sanh luôn tự phụ vào kiến thức nhị nguyên góp nhặt. Lấy cái Tôi của mình làm trung tâm vũ trụ. Không tin và không chấp nhận bất kỳ cái gì ngoài cái vốn hiểu biết hữu lậu của mình. Việc Tề Thiên bay mãi không ra ngoài bàn tay của Phật. Nhưng lại tưởng mình đã đến tận cùng trời. Tượng trưng cho con người với cái biết nhị nguyên chỉ có thể tiếp cận một mảng nhỏ chân lý mà thôi. Nhưng giống như Tề Thiên thấy ngón tay Phật tưởng là cột chống trời. Trước những việc chưa biết, cái tôi ngã mạn thường sẽ giải thích sự kiện này theo sai lầm chủ quan của mình. Bởi nhận thức không đúng như thật nên dẫn đến hành động không đúng như thật. Đi ngược với qui luật biến dịch khách quan của tự nhiên nên cuối cùng sẽ dẫn đến thất bại đau khổ. Tây Du Ký minh họa việc này qua sự kiện Tề Thiên bị đè dưới núi Ngũ Hành.

    Ngũ Hành (Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) là năm yếu tố cấu thành sắc tướng. Núi ngũ hành tượng trưng cho sắc tướng của pháp giới. Trong con người núi ngũ hành tượng trưng cho thể xác vật lý, và linh phù trên đỉnh tượng trưng cho phần phi vật lý (hay nói cách khác núi ngũ hành là ý thức, còn linh phù trên đỉnh là vô thức). Như vậy núi ngũ hành có linh phù trên định tượng trưng cho cái Tôi (Ngã). Tề Thiên cho tới giai đoạn này năng lượng thăng hoa do cái tôi ý thức chủ trì. Việc Tề Thiên thách thức với Phật Tổ Như Lai, cuối cùng bàn tay Ngài lật úp hóa thành núi ngũ hành đè Tề Thiên ở dưới minh họa quá trình cái tôi duy ý chí là trở ngại lớn làm cho năng lượng thăng hoa của con người không thể vượt qua để thể nhập trạng thái Niết Bàn an lạc của chư Phật. Núi Ngũ Hành như vậy là giới hạn mà tâm thức không thể nào vượt qua để thực chứng trạng thái siêu thức của bậc giác ngộ. Nó là ranh giới giữa ý thức và siêu thức, giữa tư duy và trực giác, giữa trạng thái nhị nguyên và đặc tính phản ảnh như thật, giữa thái cực và vô cực, giữa ngã và vô ngã. Việc Tề Thiên vùng vẫy làm nứt núi ngũ hành, tượng trưng cho cái biết của ý thức tuy ở trong sự chi phối của các quy luật tự nhiên nhưng có khả năng khám phá vận dụng các quy luật tự nhiên để phục vụ cho yêu cầu của mình. Thế nhưng khi núi ngũ hành được dán linh phù trên đỉnh, Tề Thiên không thể vùng vẫy nữa, đành chịu câu thúc 500 năm ở đây. Linh phù tượng trưng cho trạng thái bất tư nghì, là phần mà cái biết ý thức chưa vươn tới được. Điều này tượng trưng cho việc thiền nhân từ đây trở về sau không thể dùng ý thực nhị nguyên để thực chứng giác ngộ là trạng thái bất tư nghì vượt ra ngoài luân lý thông thường. Mà phải dùng khả năng trực nhận của tâm Bát Nhã Ba La Mật Đa để tự thế nhập.

    VIII/ Bất lực của cái Tôi khi thực chứng giác ngộ (khả năng hữu hạn của tâm thức nhị nguyên trước trạng thái bất tư nghì của siêu thức).

    Tề Thiên không thể vươn tới trái đào: Hình ảnh Tề Thiên do bị núi Ngũ Hành đè không thể vươn tới đẩ nhặt quả đào. Tượng trưng cho sự bất lực của tâm thức nhị nguyên khi muốn vươn tới chân lý bằng cái tôi. Núi ngũ hành tượng trưng cho ngũ uẩn (sắc thân vật lý, sắc tướng). Hình ảnh Tề Thiên bị đè dưới núi ngũ hành, tượng trưng cho sự phát triển của năng lượng khí không thể vượt qua giới hạn vật lý, sự thăng hoa hay tiến hóa của thiền nhân sẽ bị hạn chế bởi cái tôi. Bởi vậy muốn tiếp tục tiến tới chân lý thiền nhân nhất định phải phá ngã (diệt cái tôi). Đây là giai đoạn năng lượng khí của thiền nhân phải trụ vào Phật tánh, ủng hộ cái thiện vô ngã tiêu trừ ác niệm vi tế trong tàng thức. Khiến tàng thức trở thành trong suốt phản ánh như thật, như tấm gương phản ánh mọi sự trung thực nên gọi là đại viên cảnh trí. Minh họa cho giai đoạn này là hình ảnh Tề Thiên sau khi được thầy là Đường Tăng gỡ lá bùa trên đỉnh núi. Lập tức phá tan núi ngũ hành và được giải thoát (A La Hán). Sau đó hộ trì thầy đi thỉnh kinh gặp Phật và thành Phật.

     

     

     


  • Tề Thiên 5:        THẦY TRÒ GẶP NHAU.

    1)      Giới thiệu Tam Tạng ( Huyền Trang).

    Khác với Tề Thiên tượng trưng cho năng lượng thăng hoa nên phải xuất sanh từ hòn đá. Tam Tang tượng trưng  cho sư thăng hoa của ý  thức con người. Bởi ý  thức đồng nghĩa với cái tôi, mà cái tôi thì chúng  sanh  đều  xem như đồng nghĩa với thể xác vật lý của mình. Nên Tam Tạng  phải  xuất  sanh từ thai nhi do huyết nhục của cha mẹ tạo thành. Tam Tạng co cha bị kẻ thù sát hại, mẹ bị kẻ thù ép duyên. Khi vừa chào đời hài nhi Tam Tang đã được mẹ dùng bè thả trôi sông, để thoát khỏi sự sát hại của kẻ thù. Hình ảnh này tượng trưng cho tham dục là nguyên nhân làm cho chúng sanh mãi chìm đắm trong sanh tử luân hồi.

    Hình  ảnh hài nhi Tam Tạng lên đênh trên sông nước, Tượng trưng cho dòng sông kỷ niệm chảy mãi không dừng trong tâm thức, cuốn theo cái tôi giả tạo (ý thức con người), khiến cho tâm chúng sanh luôn vọng động và bất định. Đây là đầu mối vô minh dẫn đến luân hồi đau khổ. Hình ảnh hài nhi Tam Tạng được chư tăng cứu thoát dạy nên người sau này trở thành Thánh tăng đi thỉnh kinh và được thành Phật. Tượng trưng cho chúng sanh mãi trầm luân trong luân hồi sanh tử. Cho đến khi nào ý thức tham dục bị gãy đổ. Con người khởi sự hướng nội nhằm đem tâm trở về trạng thái trinh nguyên như trẻ sơ sinh. Bấy giờ Phật tánh mới có thể bắt đầu thăng hoa phát triển, giúp thành giả thoát khỏi sanh tử luân hồi và thực chứng giác ngộ.

    Hình ảnh cậu bé Tam Tạng được thầy dạy đạo, tinh tấn công phu, nghiêm trì giới luật. Minh họa giai đoạn người tu sau khi chấm dứt hướng ngoại, khởi sự quan sát nội tâm mình. Muốn tâm vọng động trở thành trí huệ tối thượng Bát Nhã Ba La Mật Đa phản ánh như thật mọi sự việc. Muốn thế nhập cảnh Niết Bàn an lạc của chư Phật . Hành giả nhất thiết phải tu giới và tu định để chuyển biến tâm thức vọng động trở thành tâm chánh định. Hành giả tuy chưa đạt vô ngã nhưng cái tôi nhị nguyên sẽ trở thành nhất nguyên với thiện niệm duy nhất choán đấy trong tâm là trạng thái luôn tỉnh giác để nhận biết mà không phan duyên mọi sự việc.

    Muốn chuyển biến cái tôi vô mình trở thành trạng thái vô ngã của cảnh giới niệt bàn. Ý thức người tu phải thường trụ vào giác tánh của mình để trở thành người quan sát cho mọi sự kiện của chính bản thân mình cũng như của pháp giới, gọi là qui y Phật. Học tập nghiên cứu kinh điển, nắm vững các giáo lý để luôn hành trì đúng phương pháp gọi là quy y Pháp. Luôn tuân thủ sự hướng dẫn dìu dắt của minh sư mình gọi là qui y Tăng. Như vậy có nghĩa là sau khi ý thức chấm dứt sự nô lệ cho bản năng tham dục quay về qui y tam bảo. Hành giả phải luôn tinh tấn công phu, thiền định tịnh tâm, nghiêm trì giới luật, phát triển tâm từ và hoạt dụng độ sanh. Hình ảnh pháp sư Tam Tạng được vua Đường kết nghĩa anh em, chọn làm thánh tăng chủ trì lễ cầu siêu. Đã dùng pháp môn tiểu thừa để thuyết pháp, mà không thể dùng đại thừa Phật pháp để độ sanh. Tượng trưng cho thiền nhân qua thời gian tu tập đã tiến đến bậc chót của pháp môn tiểu thừa. Ý thức nhị nguyên trở thành nhất nguyên, tâm loạn động trở thành chánh định. Tuy nhiên cái Tôi chánh định bây giờ biến thành trở ngại to lớn, khiến thiền nhân không thể vượt qua để thực chứng giác ngộ. Cũng như "qua sông phải dùng bè. Qua rồi phải bỏ bè mới đi tiếp được". Hành giả dùng Cái tôi chủ trì ý thức để điều hành việc tu tập pháp môn tiểu thừa. Nay đã đạt tâm chánh định, nếu không tự bỏ Cái Tôi phương tiện thì nhất định không thể tiến lên đại thừa Phật pháp để chứng thực giác ngộ được.

    Như vậy đến thời điểm này cả hai thầy trò Tam Tạng và Tề Thiên đều đã tiến hóa đụng trần của mình, nếu cứ theo phương pháp cũ thì không thể tiến lên được nữa. Tề Thiên bị đè núi Ngũ hành sơn, còn Tam Tạng thì chỉ có thể giảng kinh tiểu thừa không biết đại thừa  Phật pháp. Cả hai như vậy cần một phương pháp hợp lý để có thể tiếp tục tiến tu cho đến ngày giác ngộ hoàn toàn. Phương pháp hợp lý cần tìm là sự kết hợp giữa Tề Thiên và Tam Tạng, Đó chính là sự kết hợp giữa thiền động và thiền tịnh, kết hợp giữa sự chuyển biến thăng hoa của năng lượng và sự tiến hóa của ý thức hướng về giác ngộ.

                Chỉ có Tam Tạng mới cứu được Tề Thiên ra khỏi Ngũ Hành Sơn cũng có nghĩa là chỉ có tâm chánh định với việc qui y Tam Bảo, nghiêm trì giới luật, phát triển tâm từ mới có  thể thúc đấy nội hỏa trong kênh Sushuma vượt qua cửa ải luân xa 5 (vishusdda). Tiếp tục thăng hoa khai mở luân xa 6 Ajna giao hòa với các kênh năng lượng vũ trụ thuộc thế  Bồ tát. Cũng như tiếp tục tiến lên khai mở luân xa 7 Sahasrara, khiến thiền nhân thể nhập bản thể. Nghĩa là nội hỏa hợp nhất với bản thể ở Dụng. Hay nói cách khác nội hỏa hợp nhất với các kênh năng lượng vụ trụ thuộc thể Phật, hay hóa thân thiền nhân hợp nhất với Viên Mãn Báo Thân Lô  Xá Na Phật.

                Tam Tạng phải có Tề Thiên bảo hộ chiến đấu chiến thắng ma quỷ mới đến được đất Phật, gặp Phật Tổ Như Lai thỉnh được kinh đại thừa mang về. Tương tự như vậy bằng tâm lý và cơ bắp thiền nhân hoàn toàn có thể luyện khí tiến tu đến tiên đạo, nghĩa là thực chứng tâm chánh định. Nhưng Cái Tôi là thống soái của tâm thức, Ngalakera lệnh cho ý thức. Bởi vậy thiền nhân không thể nào dùng các biện pháp của ý thức diệt trừ cái tôi tham dục của mình được. Thiền nhân hầu như rất khó hoặc không thể nhập đại định được (Samadhi), không thể nào bằng lý trí mà thiền nhân có thể đạt trạng thái vô ngã. Cái Tôi ý thức không thể nào lặn xuống đáy tạng thức để tiêu dụng các chủng tử vi tế (lậu) nhiên hậu đạt đại viên cảnh trí và thực chứng giác ngộ toàn diện (thành Phật). Chỉ có một phương sách duy nhất là Bồ đề  tâm của trạng thái chánh định phải được bảo hộ bởi sự thăng hoa của nội hỏa. Nhằm khai mở các luân xa để giao hòa với các kênh năng lượng vũ trụ thích ứng. Minh họa việc này là hình ảnh Tề Thiền và Tam Tạng mỗi khi gặp khó khăn trở ngại trên đường đi thỉnh kinh luôn được chư Phật, chư Bồ Tát, Hộ pháp chư Thiên chư Thần giúp đỡ bảo hộ an toàn. Bởi vậy đến giai đoạn này thiền nhân chỉ có thể tiếp tục tiến tu bằng sức mạnh của 3 lực tổng hợp, đó là: ngã công đức lực, Như Lai gia trì lực và pháp giới lực.

    Như vậy phối hợp thiền động và thiền tịnh, dùng tâm chánh định điều khiển nội hỏa tiến lên giao hòa với các kênh năng lượng vũ trụ của chư Phật, chư Bồ Tát là con đường thiết yếu duy nhất để nhập định thực chứng trạng thái thiền Mật là trạng thái thăng hoa tột đỉnh của ý thức trước khi giác ngộ.

    Tam Tạng leo lên đỉnh Ngũ Hành Sơn (chỉ quy y Tam Bảo, phát triển Phật tánh mới vượt lên trên ngũ uẩn được )

    Tam Tạng tương trưng cho tâm chánh định vơi các đặc tính qui y Tam Bao, nghiêm trì giới luật và phát triển tâm từ. Núi Ngũ Hành tượng trưng cho sắc tướng ngũ uẩn là: đất, nước, lửa, gió là phần vật chất và thức là phần hồn. Linh phù của Phật tổ Như Lai tượng trưng cho Phật tánh hay phần bất tư nghì của vật chất. Tề Thiên đủ thần thông quảng đại vẫn bị núi ngũ hành đè không thoát ra được. Tượng trưng cho việc thiền nhân dù năng lượng có mạnh, công năng thần thông có cao mấy đi nữa cũng không thể tự giải thoát khỏi xiềng xích của Cái Tôi và sắc tướng. Thế nhưng Tam Tạng lại có khả năng leo lên núi Ngũ Hành để gỡ linh phù cứu Tề Thiên. Hình ảnh này tượng trưng cho việc, chỉ có tâm chánh định mới giúp cho thiền nhân nhận biết được con người thật của mình, không đồng hóa nó với thể xác vật lý. Đây là trạng thái chứng ngộ của thiền Mật. Trạng thái này làm cho năng lượng vượt khỏi giới hạn của thể vật lý tiến sâu vào trạng thái bất tư nghì của thể thứ 6 và thứ 7, nội điển giao hòa với điển quang chư Phật và chư Bồ Tát. Thiền nhân khi ấy tiến tu và hoạt dụng qua Bodhísattva của thể giác ngộ. Minh họa việc này là hình ảnh Tề Thiên vùng bể núi Ngũ Hành, được tự do theo thầy đi thỉnh kinh, gặp Phật Tổ Như Lai và thành Phật hiệu là Đấu Chiến Thắng Phật. Như vậy giai đoạn hai thầy trò đi thỉnh kinh tượng trưng cho giai đoạn ý thức thiền nhân được nội hỏa bảo hộ tiến sâu vào tàng thức để tiêu dụng sạch các chủng tử, làm cho thức luân ngừng vận động, thiền nhân đạt khả năng phản ánh như thật của tự nhiên trí (Bát Nhã Ba La Mât Đa).

    Cầu Phật thu hồi linh phù:(Chỉ có giới luật và đức tin mới vận hành được mật pháp của chư Phật)

    Tề Thiên thần thông pháp thuật cao cường,  có  khả  năng  đại  náo  thiên cung chiến thắng thiên binh thần tướng, thế nhưng không thể gỡ linh phù  của  Phật  tổ  Như  Lai  trên đỉnh Ngũ Hành Sơn để tự giải thoát cho mình. Trong khi Tam Tạng không có thần thông pháp thuật, chỉ bằng đức tin mãnh liệt của mình, chắp tay khẩn cầu chư Phật, linh phù tự bay về trời và cứu được Tế Thiên. Hình ảnh này minh họa cho việc hành giả đủ công lực và thần thông pháp thuật cao cường đấn mấy đi nữa. Nhưng thiếu đức tin, không giữ giới luật, tâm không định, thì cũng không thể tiếp cận và thức chứng các Mật pháp bất tư nghì của chư Phật. Trái lại dù đó là pháp bất tư nghì không hiểu được bằng ý thức thông thường, nhưng một người giữ giới tốt, có tâm chánh định và có đức tin, hoàn toàn có thể tu chứng đại thừa Mật giáo của chư Phật, có thể sử dụng ấn quyết (mudra), chân ngôn (dalani) và linh phù (mantra) một cách có hiệu quả trong việc tu tập và hoạt dụng độ sanh.

    Linh  phù bay về trời:(Trạng thái Thần hoàn Hư hay siêu thức thăng hoa thành siêu thức tập thể, để cuối cùng thể nhập siêu thức vũ trụ).

    Linh  phù   dán  trên đỉnh Ngũ Hành Sơn của Phật Tổ Như Lai có các chữ: UM MA NI BÁT MÊ HUM. Trong đó UM: là bản thể xuất sanh ra vạn pháp, tượng trưng cho ân điển thiêng liêng của chư phật giao tiếp tại luân xa 7 để hoạt dụng độ sanh, do thiện thệ của người đã giác ngộ. MA NI: nghĩa là ngọc như ý, tượng trưng cho Tinh Khí Thần hợp nhất tại các đan điền, giúp thiền nhân tự khai mở các luân xa tương ứng và giao hòa với các kênh năng lượng vũ trụ, do đó có công năng nên có thể thực hiện thực hiện một số sự việc bằng cách dùng khí điều ý. BÁT MÊ: là ao sen, tượng trưng cho hệ  thống  7 luân  xa. Theo Yoga Ấn  giáo  hoa sen nở thường được dùng biểu thị cho luân xa đã khai mở. Với luân xa cao nhất là luân xa 7  (Sahasra)  được tượng trưng bởi hoa sen nghìn canh. HUM: tượng trưng cho vạn pháp sau quá  trình  hiển thị  qua  các giai  đoạn: thành; trụ; hoại; diệt sẽ tự quay về hội nhập với bản thể không hình tướng. Hình ảnh linh phù từ Phật Tổ Như Lai xuất ra, dán trên đỉnh Ngũ Hành để làm đối tượng cho Tề Thiên và Tam Tạng tiến tu phá Ngã, sau đó rời núi Ngũ Hành bay về trời là các hình ảnh sinh động minh họa cho lục tự đại minh chân ngôn ( Um mani batme hum).

    2) Quan hệ thầy trò:

    a) Hội ngộ với Thầy:

    Trạng thái giải thoát: Sau khi linh phù trên đỉnh bay về trời tượng trưng cho Thần hoàn Hư thì Tề Thiên vùng bể núi Ngũ Hành thoát ra ngoài và theo bảo hộ thầy là Tam Tạng đi thỉnh kinh, gặp Phật Tổ như Lai và được thành Phật cùng với Tam Tạng, tượng trưng cho nội hỏa tiếp tục thăng hoa hội nhập với biển năng lượng của chư Phật chư Bồ Tát ngũ uẩn giai không và cái Tôi giả tạo bị tiêu diệt (vô ngã). Khi ấy ý thức dưới sự bảo trợ của nội hỏa tiếp tục thăng hoa tiến sâu và tàng thức tiêu dụng sạch các chủng tử (tượng trưng bằng hình ảnh diệt trừ tà ma trên đường thỉnh kinh) để trở thành siêu thức tập thể rồi siêu thức vũ trụ, tương ứng với trạng thái tâm thức giác ngộ của Bồ Tát và Phật. Như vậy năng lượng của thiền nhân (tượng trưng bởi Tề Thiên) hội nhập toàn diện với Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật và ý thức thăng hoa tột bực thành tự nhiên trí của Bát Nhã Ba La Mật Đa hay ý thức thiền nhân (tượng trưng bởi Tam Tạng) thể nhập toàn diện với Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Xá Na Phật.

     Thoát khỏi Ngũ Hành Sơn và hội ngộ với Tam Tạng:

    Tề Thiên có hai người thầy. Người thầy đầu tiên là tổ sư Bồ Đề đã dạy Tề Thiên phép cân đẩu vân và 72 phép biến hóa của huyền công. Người thầy thứ nhì là Tam Tạng, vai trò làm thầy mờ nhạt hơn vai trò trưởng đoàn đi thỉnh kinh. Tam Tạng chỉ thông qua các tình huống trên đường đi Tây Trúc mà giáo huấn Tề Thiên cũng như Sa Tăng, Bát Giới về giới luật, về phẩm hạnh, về đức từ bi, về đức tin và nhất là Bồ Đề tâm kiên cố quyết đi đến đất Phật, thỉnh được kinh mang về phổ độ cho mọi người. Như vậy giai đoạn đầu tiên từ luân xa 1 đến luân xa 5, người thầy là Tổ sư Bồ Đề. Nghĩa là thiền nhân do định tâm mà đắc khí. Sau đó phải trụ vào giác tánh của mình để điều khiển luồng năng lượng thăng hoa phát triển khai mở các luân xa, giao hòa với các kênh năng lượng vũ trụ thuộc Tiên đạo. Giai đoạn thứ nhì từ cuối luân xa 5 đến luân xa 7, người thầy là pháp sư Tam Tạng. Nghĩa là khi vượt qua cửa ải luân xa 5, trong cơn thiền định, thiền nhân phải phá ngã để nhập đại định (samadhi). Do vậy không thể dùng cái Tôi để hành Thiền được nữa. Trái lại thiền nhân trong cuộc sống thường nhật phải tiếp tục thăng hoa bằng giới luật, phạm hạnh, bằng bồ đề tâm kiên cố và nhất là bằng niềm tin vào chư Phật chư Bồ Tát và giáo pháp tối thượng của Ngài. Để rồi trong cơn thiền định, thiền nhân giao hòa nội khí với điển quang chư Phật chư Bồ Tát (kênh năng lượng thể Bồ Tát và thể Phật), vô ngã thông qua thể Bodhísattva hành thiền Mật với bản thể hiển thị qua Mahamudra + Mahamantra  + Mahadalani  (Đại Thủ Ấn + Đại linh phù + Đại thần chú). Trong giai đoạn chót của nấng thang giác ngộ không hề có một sự cố gắng nào, không hề có một dụng tâm nào, chỉ là sự buông xuôi và chờ đợi để dòng dịch lý biến hóa đưa về đích giác ngộ. Như vậy sau khi phi thuyền ý thức bằng sức mạnh của hòa tiên nội khí, bay thẳng lên không trung chiến thắng sức hút xiềng xích của Cái Tôi trái đất và đi vào đúng quĩ đạo của chánh định, nó sẽ tự vận hành trong quĩ đạo thăng hoa này mà không cần thêm một lực nào tác động nào nữa cả. Đó là trạng thái vô tác hay "vô công dụng hạnh tự nhiên thành" của giai đoạn thiền Mật.

    Tề Thiên bảo hộ Tam Tạng đi thỉnh kinh:

    Hình ảnh Tề  Thiên bảo hộ  Tam Tạng đi thỉnh kinh minh họa cho thể Bodhísattva trong giai đoạn thiền Mật. Đây là sự kết hợp giữa thiền động và thiền tịnh, giữa Khí và Bồ đề tâm, giữa sự dâng lên của nổi hỏa (Kundalini) trong kênh Sushuma và sự chuyển biến thăng hoa của ý thức về hướng giác ngộ. Đây là con đường thiết yếu mà thiền sinh của bản môn nhất thiết phải triến tu để cuối cùng theo gương chư Phật thực chứng giác ngộ.  

    Quan Thế Âm Bồ Tát và Tề Thiên Đại Thánh (Nội hỏa giao hòa với kênh năng lượng vũ trụ  Quan  Âm để thành YIDAM)

    Hình ảnh Quan Thế âm Bồ Tát, chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Mẫu, chư Thiên, chư Thần thường theo ủng hộ gia trì cho Tề Thiên chiến đấu thắng Ma quân bảo hộ Thầy và cả đoàn an toàn trên đường đi thỉnh kinh. Minh họa rất rõ trạng thái nội hỏa giao hòa với các kênh năng lượng vũ trụ tạo thành sức mạnh tổng hộp giúp thiền nhân đủ sức tiêu dụng các chủng tử trong tàng thức, biến tâm thức thành đại viên cảnh trí có khả năng phản ánh như thật mà không phan duyên mọi sự kiện và sắc tướng. Như vậy cũng có nghĩa là thiền nhân luôn an trú trong hiện tại và luôn thể nhập được tánh như thị của các pháp, do vậy dứt khổ (Dukkha) và thực chứng cảnh giới Niết bàn an lạc (Nirvana).

    b) Hàng Long phục Hổ:

    Hổ là ác thú tượng trưng cho thú tính của thiền nhên trong trạng thái ý thức. Rồng là ác thú tượng trưng cho thú tính của thiền nhân khởi lên trong cơn thiền định (thiền thức). Lần đầu tiên gặp hổ Tam Tạng may mắn được Lưu Bá Khâm bắn chết hổ cứu thoát. Hình ảnh này tượng trưng cho thiền nhân ban đầu thắng được thú tính của mình là nhờ vào giới luật, môn qui và các chế độ, các quy tắc nghiêm mật của thiền đường đã giúp thiền nhân đè nén được dục tính chứ tự thân chưa thật sự vượt qua được nó. Trong các giai đoạn đầu tiên này trong cơn thiền định cũng như trong giấc ngủ, thường thiền nhân chưa chiến thắng được thú tính của mình. Trái lại khi Tam Tạng đã có Tề Thiên theo bảo hộ, Tề Thiên đã đánh chết hổ và được Bồ Tát Quan Âm giúp đỡ, hàng phục rồng thành ngựa cho Tam Tạng cưỡi. Hình ảnh này tượng trưng cho giai đoạn thiền nhân biết kết hợp thiền định và thiền động. Biết kết hợp giữa sự thăng hoa của năng lượng sinh học trong cơ thể và sự chuyển biến của tâm thức về hướng giác ngộ thì tự thân sẽ chiến thắng được đòi hỏi của thú tính, do năng lượng dục đã chuyển biến thành năng lượng tịnh gọi là khí (điển quang) và ý thức dục đã được chuyển biến thành tâm từ là thứ tình yêu rộng lớn và bình đẳng của nhà Phật (khác với tình yêu nhục dục nam nữ có tính cá nhân và sở hữu). Đối với Tiên Đạo đây là trạng thái "trừ thanh long, trảm bạch hổ" nghĩa là nam không xuất tinh và nữ không kinh nguyệt nữa vì năng lượng dục đã hoàn toàn chuyển hóa thành khí (luyện Tinh hóa Khí hay Bramacharya). Trong Tây Du Ký nhân vật Tề Thiên tượng trưng cho "năng lượng Dục" thăng hoa thành "điển quang" (khí). Ngựa trắng hóa thân của thái tử long cung Tiểu Bạc Long tượng trưng cho "ý thức dục" thăng hoa thành "tâm từ". Còn Tam Tạng tượng trưng cho tâm chánh định tiến tu để phá Ngã thành Phật. Cả hai Tề Thiên và ngựa trắng đều là yếu tố tối cần thiết bảo hộ và đưa Tam Tạng về đến đất Phật thỉnh kinh. Tương tự như vậy muốn tâm thức vô minh tiến tu thành trí huệ tối thượng (thành Phật). Thiền nhân nhất thiết phải dùng ý thức tu tập để đạt chánh định. Sau đó dưới sự bảo trợ của nội hỏa thăng hoa và một tâm từ rộng lớn, thiền nhân tiến lên phả ngã nhập đại định, thực chứng Ngã không và pháp không, đạt trí tuệ tối thượng Bát Nhã Ba La Mật Đa, thể nhập trạng thái trường trụ an lạc của cảnh giới Niết Bàn, gọi là thành Phật.

    c)Bỏ thầy về núi: (Trạng thái rối loạn khí hay mất khí, khi phối hợp thiền động và thiền tịnh).

    Hình ảnh Tam Tạng đích thân may áo cho Tề Thiên mặc tượng trương cho thiền nhân khi phối hợp thiền động với thiền tịnh đã biết dùng giới luật nhà Phật để vận hành nội hỏa tiếp tục tiến tu. Thế nhưng ngay sau đó vì bảo vệ thầy Tề Thiên phạm giới sát sanh bị Tam Tạng quở mắng đã bất mãn bỏ thầy về núi. Điều này tượng trưng cho thiền nhân nếu chỉ dùng ý thức để giữ giới, bằng cách đè nén chúng. Các yếu tố đè nén này sẽ trở thành các chủng tử được tâm lưu giữ trong tàng thức. Trong các nấc thang chót của thiền. Ý thức hành giả phải lặn thật sâu xuống đáy đại dương tàng thức để trong sạch hóa nó nhiên hậu mới đạt thành đại viên cảnh trí được (Prajnaparamita)...  Khi ấy   thiền nhân sẽ gặp trở lại cổ nhân là các yếu tố tham dục đã bị ý thức đè nén khi xưa. Thế nhưng bây giờ thiền nhân đang trong cơn thiền định, ý thức không còn nữa mà trở thành hiện thực. Bởi vậy thiền nhân không còn phương tiện tự thân để chiến thắng các chủng tử nữa. Dưới tác động của thiền các chủng tử này bị tác động sẽ quay cuồng trong đáy tâm hồn làm thức luân chuyển, dẫn đến loạn tâm bất định. Thiền nhân sẽ bị rối loạn khí trường hoặc mất khí. Do vậy không thể thiền định vào những bậc cao hơn. Trong Tây Du Ký, hình ảnh Tề Thiên bỏ Tam Tạng về núi minh họa trạng thái thiền nhân bị mất khí.

    Khi Tề  Thiên bỏ  thầy về núi thì Tam Tạng không thể vượt qua được các trở ngại trên đường đi thỉnh kinh, còn Tề Thiên thì uống rượu giải sầu ở Long Cung. Hình ảnh này tượng trưng cho trạng thái bị rối loạn khí hay bị mất khí trong cơn thiền định, khi thiền nhân phối hợp thiền động và thiền tịnh. Nguyên nhân vì công phu trì giới của thiền nhân chưa sâu. Thiền nhân còn phải dùng lý trí hữu lậu để cố gắng đè nén các ác niệm. Bởi vậy khi nhập thiền tiến sâu vào tàng thức, thiền nhân thường sẽ bị phan duyên theo các ý niệm tham dục do chủng tử hiện hành. Hoặc sẽ bị đắm chìm trong các huyễn cảnh của tâm thức do trạng thái an lạc thiền tạo ra. Do vậy nên khó tiến tu lên những bậc cao hơn. Pháp đối trị trong trường hợp này là: Phải phối hợp tự lực và tha lực, phải giao hòa nội điển và điển quang chư Phật chư Bồ Tát,  vị thầy độ mạng Yidam của thiền nhân sẽ gia trì trợ lưc trong việc hành trì giới luật. Trong bản môn gọi là giới tự giữ.

     

    Bồ tát Quan Âm truyền chú khẩn cô cho Tam Tạng:

    Hình ảnh Tam Tạng được Bồ Tát Quán Thế Âm truyền chú  Khẩn Cô để điều khiến vòng Kim cô bóp đầu Tề Thiên, khiến Ngài đau đớn không dám trái lời, một lòng bảo hộ thầy sang Tây Thiên thỉnh kinh tượng trưng cho thiền nhân trong giai đoạn phối hợp thiền động và thiền tịnh phải dùng tâm chánh định trì chân ngôn (dalani) để giao hòa nội điển (khí) và điển quang chư Phật tạo thành năng lượng tổng hợp là Bodhísattva mà Mật tông quen gọi là thầy độ mạng Yidam. Chính năng lượng tổng hợp này có một sức mạnh mới khiến thiền nhân đủ sức mạnh chiến thắng mọi cám dỗ của ác niệm. Do vậy cơ thể thiền nhân tự có khả năng giữ được một số giới mà trước kia mình không thể giữ được dù rất muốn. Thí dụ thiền nhân thiền nhân phát nguyện ăn chay để tinh tấn tu tập nhưng thường ý thích ăn thịt mạnh hơn khiến thiền nhân không thể giữ được giới. Nhưng nếu giao điển quang với thầy độ mạng của mình thì Ngài sẽ gia trì để thiền nhân tự cảm thấy thức ăn mặn (thịt, cá ...) tự nhiên có mùi tanh không thể thích được, ăn vào sẽ bị nôn mửa. Do vậy thiền nhân có thể ăn chay dễ dàng. Khi nào muốn chuyển sang ăn mặn thiền nhân chỉ cần thụ khí giao điển quang với Ngài Yidam xin xả giới thì tự nhiên hiện tượng trên sẽ chấm dứt, cơ thể sẽ trở về trạng thái bình thường như trước. Việc cơ thể tự thích nghi với giới luật không cần phải dùng ý chí để ức chế đè nén gọi là giới tự giữ là một biểu hiện tiến hóa quan trọng trên con đường tu tập của môn sinh Mật tông.

    Hình ảnh Tề Thiên không thể tự gỡ vòng kim cô ra khỏi đầu mình tượng trưng cho năng lượng dục dù đã thăng hoa cũng không thể chiến thắng giới luật của nhà Phật. Nghĩa là khi thiền nhân phát nguyện giữ giới nào, cơ thể sẽ tự chuyển đổi thích nghi với giới ấy, chứ không theo ý muốn tham dục của hành giả.

    Mỗi khi Tam Tạng trì chú vòng kim cô thu nhỏ lại khiến Tề Thiên bị đau. Hình ảnh này tượng trưng cho thiền nhân khi công phu tu tập đã đủ ngày giờ, đã giao hòa với điển quang chư Phật chư Bồ Tát, và đã phát đại nguyện giữ giới thì giới tự giữ (hay vô thức giới) sẽ tự xuất hiện như một sự kiện khách quan. Biểu hiện của giới tự giữ là hiện tượng cơ thể tự phản vệ trước các yếu tố phạm giới như là các yếu tố không thích nghi. Với vòng kim cô trên đầu kể từ nay Tề Thiên không dám tự ý bỏ đi, không dám cãi lời với Tam Tạng, nhất tâm theo bảo hộ thầy đi thỉnh kinh thành công. Tương tự như vậy khi thiền nhân đã đắc giới tự giữ thì nội hỏa có thể tiếp tục thăng hoa lên luân xa 6 và 7 để nhập pháp giới trọn vẹn và ý thức mới có thể tiếp tục lặn sâu xuống đáy của đại dương tạng thức sơ năng biến, tiêu dụng mọi chủng tử vi thế, thực chứng trạng thái Bát Nhã Ba La Mật Đa là tự nhiên trí tối thượng của chư Phật và thể nhập trạng thái an lạc của cảnh giới đại niết bàn.