nhoctaba said:
Tài liệu Khái niệm Ba thân của Thầy,
đã có đăng trên trang daophatngaynay.com
Cảm ơn Thầy đã hướng dẫn cho chúng con những bài Pháp quý giá.
Chúc bà con tu tập có sức khỏe tốt và an lạc.
Nam Mô A Di Đà Phật
Đây là tài liệu về Khái niệm Ba thân của Thầy đã được convert từ pdf sang word để thuận tiện cho người đọc (nhất là với máy tính không cài pdf).
KHÁI NIỆM BA THÂN (SẮC THÂN - HÓA THÂN - PHÁP THÂN)
Huệ Ấn - Huệ Hải
I. Bảy bước thăng hoa:
Thực tại của sự vật là biểu hiện của bản thể qua huyễn cảnh của tâm thức. Cái "biết tồn tại" và "sự tồn tại" là cặp tương tác hiện hữu đồng thời và tùy thuộc lẫn nhau. Do vậy mức độ nhìn nhận sự vật tùy thuộc vào mức độ thanh tịnh của tâm. Có thể xem: "Vật chất như là năng lượng cô đọng lại, còn năng lượng là vật chất phân tán ra, chúng có thể chuyển hóa cho nhau."(Einstein). Theo Mật giáo, năng lượng của vật chất biểu hiện bằng điển quang (khí), với nội điển vận hành trong nội môi tạo thành trường năng lượng bao quanh thể vật lý của vật ấy. Nội điển (nội khí) bên trong và điển quang bên ngoài của chư Phật chư Bồ Tát (năng lượng vũ trụ) đều có cùng bản chất. Vì đều là hiển tướng của bản thể (cái MỘT duy nhất).
Đối với con người, cái thang tiến hóa của tâm thức về với thanh tịnh tối thượng, gồm có 7 bước thăng hoa. Mỗi bước tương ứng với sự khai mở của một luân xa (chakara) và biểu hiện bằng một thể thanh tịnh Thể vật lý đầu tiên tương ứng với luân xa Muladhara (huyệt Trường cường), thường được gọi là Báo Thân. Thể tối thượng là thể tứ 7, tương ứng với luân xa Sahasrara (huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu), thường được gọi là thể Pháp thân vô tướng . 5 thể còn lại thường được gọi chung là Hóa thân hay thể Bodhisattva. Từ dưới đi lên đỉnh đầu, 5 thể này tương ứng với 5 luân xa sau: Svadishthana (huyệt Dương Quan), Manipura (huyệt Mệnh Môn), Anahata (huyệt Tâm Du), Vishuddha (huyệt Đại Chùy), Ajna (huyệt Ấn Đường). 5 thể hóa thân này thực sự là những bước tiến quan trọng trên con đường tu tập. Nó đưa thiền nhân dần dần thể nhập được với Chân Như (nghĩa là thành Phật) bằng cách hội nhập với Yidam của mình (thầy độ mạng) với mức độ ngày càng triệt để hơn.Ngày nay khoa học bằng phương pháp chụp hình của KIRLIAN đã chụp được 7 vòng ánh sáng (hào quang) có màu sắc khác nhau bao quanh thể vật lý. Đây là trường năng lượng sinh học của 7 thể thanh tịnh này, hay còn gọi là điển quang của Ngài YIDAM với các mức độ thanh tịnh khác nhau.
a) Theo Ấn Độ giáo (Hindu) và một số trường phái bí truyền khác ở Á đông. Tiềm năng cơ thể tượng trưng bởi con rắn lửa Kudalini nằm cuộn mình ở cuối đốt sống cùng (huyệt Trường Cường). Thông qua tập luyện đúng cách, tiềm năng này được kích hoạt sẽ vươn lên qua hai kênh dẫn truyền: Kênh Pingala (dương) và kênh Ida (âm).Hai kênh này quấn vòng quanh cột sống và giao nhau tại 7 điểm nằm trong một kênh trống rỗng ở giữa cột sống gọi là kênh Sushumna (kênh trung đạo). Vai trò chủ đạo của người tu tập là tinh tấn thiền định và hành công để Kundalini vươn lên đột phá qua các luân xa này, tiến đến đỉnh đầu (luân xa 7), vượt qua Sahasra, hội nhập với biển hào quang của chư Phật. Mỗi luân xa tương đương với một thể thanh tịnh và một mức độ công năng nhất định và luân xa 7 tượng trưng cho trí huệ tối thượng và sự toàn năng của Pháp thân thanh tịnh.
Có thể nói đây là cách kích hoạt luân xa theo chiều thẳng đứng.
Đây là cách kích hoạt luân xa theo đường vòng tròn (vòng châu thiên).
c) Phật giáo: chỉ làm thiện, giữ giới, thiền định và thường trụ chánh niệm. Do vậy tuy không kích hoạt luân xa, nhưng thân tâm cũng thanh tịnh dần, để cuối cùng đạt Bát Nhã Ba La Mật Đa. Do vậy từng bước nhận được ân điển của chư Phật, chư Bồ Tát, luân xa tương ứng tự khai mở, công năng tự xuất hiện.Đây là cách nhận ân điển thiêng liêng, luân xa xa tự mở.
d) Tính hợp sáng của Phật giáo: Các pháp đều là Phật pháp biểu hiện dưới những khía cạnh khác nhau vì đều là những biểu hiện của bản thể. Hành giả phải biết sử dụng các biểu hiện thích hợp với mình trong đường lối chung do chư Phật vạch ra như là pháp phương tiện để thăng hoa hợp nhất với bản thể (Phật tánh). Đó là tính hợp sáng làm cho Phật giáo luôn mang trong mình nó tinh hoa của mọi thời đại, dung hợp được mọi chiều hướng khác nhau để cùng chảy về điểm duy nhất MỘT (Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn). Sau đây là một vài liên tưởng về vấn đề này:- Truyền thuyết Phật giáo cũng ghi lại rằng: khi đức phật vừa đản sinh Ngài được 9 con rồng phun nước tắm, nhả nhạc vang lừng, hương thơm sực nức, chư Thiên chư Thần hộ trì chung quanh. Ngài đi 7 bước trên 7 hoa sen khai mở, chỉ tay lên trời, tay xuống đất và nói: "Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn". Câu nói này phải chăng ám chỉ cho chân lý "MỘT là tất cả, TẤT CẢ là MỘT" và nêu bậc được đặc tính hợp sáng của Phật pháp. Còn đi trên 7 hoa sen đã nở phải chăng là hình ảnh tượng trưng cho đức Thích
Ca là Phật đã thành từ vô lượng kiếp, 7 luân xa đã hoàn toàn khai mở và nở hoa.. Nhưng vì tâm từ bi muốn hóa độ chúng sanh trong cõi Ta Bà nên ngài đã thị hiện đản sinh như người thường để tiện bề giáo hóa. 7 đóa sen còn tượng trưng cho 7 vị cổ Phật là tiền thân của Đức Thích Ca trong tiền kiếp. Đó là: Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật, Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Những hình tượng như chư Thiên, Long (Rồng), Dạ Xoa(Yaksa), Càn Thát Bà(Gandharva), A Tu La (A Sura), Ca Lâu La (Garuda), Khẩn Na La (Kinnara), Ma Hầu La Già (Mahanaga), vốn là hình tượng của Ấn Độ Giáo đã được Phật giáo hóa trong cấu trúc Thiên Long Bát Bộ nhà Phật. Ngày nay vào một ngôi chùa ta vẫn thấy trên Phật điện có tượng Phạm Thiên (Brahma) và Đế Thích (Indra) vốn là hình tượng Ấn Độ giáo .v.v. . . . . . . .
- Khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, ta thấy trong điện Phật có thờ Ngài Quan Thánh là một vị Thánh rất được nhân dân Trung Quốc ái mộ và sùng kính. Cũng như vậy khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, ta thấy trong các chùa, nhất là các chùa ở miền Bắc đều thờ phụng theo lối tiền Phật hậu Mẫu. Nghĩa là phía trước thờ Phật, phía sau hay một bên chùa thờ Tam tòa Thánh Mẫu là tín ngưỡng bản địa rất được dân Việt Nam sùng kính. . . . . . . . .
II. Vai trò của các trạng thái:
Do vậy đối với huyền công, người tu tập phải sử dụng phối hợp nhuần nhuyễn 3 trạng thái của thân trong từng bài tập mới có thể đạt kết quả cao:
a. Trụ ở Pháp Thân Thanh Tịnh:
Nghĩa là khi tu tập phải luôn luôn giữ tâm ở thế trang nghiêm và thanh tịnh. Dù ngoài chẳng lìa cảnh, trong chẳng lìa niệm, luôn luôn hoạt dụng mà không phút nào mất thế tịch tỉnh y nhiên.Pháp Thân hay Phật Tánh là bản thể Khí, là năng lượng thường trụ, có sẵn trong ta và trong muôn loài muôn vật, là cái Một duy nhất như thị, không đặc tính mà đặc tính nào cũng có đủ, không tạo tác mà vạn pháp hiện hình qua động niệm của tâm chúng sanh. Do vậy trụ ở Pháp Thân Thanh Tịnh cũng có nghĩa là luôn hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajna Paramita). Theo đó tuy Tướng động mà Tâm càng ngày càng tiến về điểm yên lặng tột cùng, để ngày càng tiếp cận sâu hơn và cuối cùng hội nhập được với bản thể linh diệu này.
b. Vận hành bằng Thân Quang Minh (Hoá Thân)
Phải dùng các trạng thái của thân thứ hai, thanh tịnh hơn thân vật lý gọi là Thân Quang Minh (Bodhi) để tu tập mới có hiệu lực. Thân này xuất hiện khi đắc khí và được kết tập bằng các hạt quang minh với mức độ thanh tịnh dần theo sự tiến hóa của người tu tập.Chính kinh mạch là các đường dẫn truyền năng lượng của Thân Quang Minh, với các trung tâm giao lưu tiếp nhận và điều khiển năng lượng là các luân xa (Chakaras). Huyệt đạo và luân xa cũng là những cửa ngõ giao lưu năng lượng khí (hào quang) của ba thân là Sắc Thân, Hoá Thân, Pháp Thân với ngoại môi là pháp giới bên ngoài.Như vậy dùng Thân Quang Minh để tu tập cũng chính là dùng Thế Thanh Tịnh của thân vật lý làm cầu nối để nhận điển quang Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Vị Thần Linh lớn ... rèn luyện thân vật lý về thể xác lẫn trí tuệ để nó ngày một thanh tịnh hơn, đạt khả năng ngày càng to lớn hơn, nhằm đủ sức tiếp nhận mức độ điển quang (khí) qua các kênh quyền lực ngày một cao hơn. Hoàn thiện không ngừng về thể xác lẫn tâm hồn cho đến ngày giác ngộ hoàn toàn. Khi ấy Sắc Thân, Hóa Thân trùng với Pháp Thân Thanh Tịnh của bản thể duy nhất Một này.
c. Hoạt dụng bằng Thân Vật Lý (Sắc Thân hay Báo Thân)
Bằng các hoạt động của cơ bắp và các biểu hiện tâm lý của cơ thể (Thân, Khẩu, Ý). Sắc Thân tu tập và hành thiện bằng cách nhận sự điều khiển của Pháp Thân (Thần), sử dụng năng lượng Khí của Hoá Thân và mọi hoạt dụng bởi sức mạnh (Tinh) của Sắc Thân.
Như vậy Pháp Thân là thể Thanh Tịnh tuyệt đối tại Tâm mỗi người, nó là Tánh, là Bản Thể, là
Niết Bàn, là cái đích mà người tu tập phải tự tiến tu cho đến ngày hội nhập.
Hoá Thân là người Thầy vô hình tại Tâm mỗi người. Hóa Thân có nhiệm vụ hướng dẫn hộ trì người tu cho đến ngày chứng ngộ hoàn toàn. Hoá Thân có được là do Tâm thành của chúng sanh muốn giải thoát khỏi luân hồi. Chư Phật, Chư Bồ Tát do nguyện lực của mình dùng hào quang (Khí) kết tập một Thân Thanh Tịnh thích hợp với căn cơ tâm tánh và nghiệp lực của người tu để dạy đạo cho họ. Mật Tông gọi Hoá Thân này là vị Thần Hộ Mạng, Phạn ngữ gọi là Yidam.
Theo phương pháp cổ truyền, muốn nhận vị Thần Hộ Mạng này nhất thiết phải được Minh Sư làm lễ quán đảnh cho.
Với sự gia trì của Ngài YIDAM, hành giả có thể thành thầy chữa trị tâm linh:
Giữa Hóa Thân và Sắc Thân có sự hỗ tương mật thiết để cùng tiến hóa. Nếu Sắc Thân giữ giới nghiêm mật, tâm thanh tịnh dần, thì người Thầy dạy đạo vô hình là Hóa Thân cũng trang nghiêm thanh tịnh và uy lực. Ngược lại nếu Hoá Thân uy lực hơn thì sẽ hộ trì cho sắc thân khỏe mạnh, trí huệ và thần thông tiến hóa cao hơn. Cả hai tác động hỗ tương nhau cùng tiến bộ cho đến ngày Hóa Thân tiến hóa cực điểm trùng với bản thể là Pháp Thân Thanh Tịnh, tượng trưng bởi Đức Tỳ Lô Giá Na Phật. Khi ấy Sắc
Thân tiến hóa cực điểm để trở thành con người hoàn thiện, tượng trưng bởi Đức Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật.
III. "Ngã" và "Vô Ngã"
Khi chưa tu tập, chúng sanh trụ ở sắc thân và "chấp ngã". Nghĩa là xem cái tôi là trung tâm điểm của mọi sự. Từ đó dẫn đến xem vạn pháp là thực có. Do vậy mà tham dục và vô minh khởi lên. Đó là nguyên nhân cốt lõi gây ra đau khổ luân hồi. Như vậy muốn giác ngộ và đoạn diệt sanh tử luân hồi cũng có nghĩa là phải đoạn diệt cái tôi.
Trái lại khi đã đắc khí và bắt đầu tu tập với Hóa Thân. Hiểu được vạn pháp kể cả cái tôi là do nguyên nhân giả hợp, không thực có, dẫn đến "chấp vô ngã" và trụ vào cái Không.
Chỉ có người giác ngộ hoàn toàn là không chấp "có" lẫn chấp "không", mà hội nhập hoàn toàn với
Pháp Thân Thanh Tịnh, nhập vào biển diệu tâm, đạt trạng thái Chân Không mà Diệu Hữu.
Hóa Thân vô ngã đối lập với sắc thân chấp ngã. Nhưng cả hai hiện diện đồng thời với nhau. Không thể có cái này mà không có cái kia được. Chúng là những khái niệm duy danh chỉ có được do so sánh với cái đối lập:
Thí dụ: Cao có được do so sánh với Thấp.
Tối có được do so sánh với Sáng. Mập có được do so sánh với Ốm....
Do vậy Ngã có được do so sánh với Vô Ngã. Nên nếu mất Ngã thì Vô Ngã cũng mất theo.
IV. Con đường tiến hóa:Bởi vậy nếu thấy được Thân vật lý này là giả hợp do nhân duyên kết tập, thực sự không có tự tánh, thì dĩ nhiên thân này không có ngã. Do vậy Hóa Thân vô ngã cũng tự biến mất theo, đạt tình trạng Không Hải là bờ mé của tạng thức Sơ Năng Biến. Đối với Bồ Tát Đạo là đạt Đệ Bát Địa (cấp thứ 8)
Phương pháp phá ngã của sắc thân. Nghĩa là để thấy thân này thực sự không có cái tôi là một phương pháp đặc thù của bản môn. Phương pháp thực hành cụ thể có thể tóm lược như sau:
- Luôn luôn thường trụ khí và phải dùng khí trong toàn bộ hoạt động của con người (Thân, Khẩu, Ý). Ta thấy khi đắc khí và dùng Hóa Thân để hoạt dụng thì toàn bộ động tác cũng như biểu hiện tâm lý xuất hiện hoàn toàn không phải do ta làm. Mà rõ ràng là do một năng lực vô hình là Hoá Thân làm thay ta. Do vậy khi đắc khí ta mới có thể bấm đúng huyệt đạo, chữa lành một số bệnh nan y, làm được một số việc phi thường mà thể xác vật lý thường ngày của ta không thể làm được.
- Vậy rõ ràng hoạt động khi đắc khí là "vô ngã" chỉ có sự kiện làm, chứ không có cái tôi tham dự vào. Cái "Tôi" hay "Ngã" chỉ làm chứng nhân để nhận biết mọi việc mà thôi.
- Vậy nếu toàn bộ sinh hoạt sống và tu tập của ta đều được làm bằng khí thì "Ngã" bị tiêu diệt.
- Khi ấy "Vô Ngã" cũng tự biến mất theo "Ngã". Vì không có khái niệm đối tượng để so sánh. Như vậy đây là phương pháp dùng "Vô Ngã" để diệt "Ngã" làm "Vô Ngã" cũng biến mất theo.
Đạt trạng thái Chân Không Diệu Hữu, nghĩa là thấy Tánh và chứng ngộ.
Nó cũng giống như người kia bị gai đâm vào chân. Phải dùng cái gai khác để nhổ nó ra. Sau đó vất cả hai cái gai đi. Do vậy hết đau nhức, đạt tình trạng thoải mái và an lạc.
Chú ý: Nếu chỉ thông qua lập luận, biết "Ngã" và "Vô Ngã" là giả hợp không thực có. Rồi cho là đã phá "ngã" và được chứng ngộ là hoàn toàn sai lầm. Vì thực tiễn cái biết thinh văn nhất định không đủ sức gột rữa được tập khí nhiều đời của chúng sanh về vô minh chấp ngã (nghĩa là cho cái tôi là thực có).
Đối với những người này, tuy ngoài miệng luôn nói đã phá ngã và đắc pháp. Nhưng thực sự trong cuộc sống cái tôi của họ vẫn còn hiện diện, có khi còn mạnh hơn trước vì bị ức chế đè nén, dù nó đã được che đậy một cách khéo léo hay mang một hình thức ngụy trang tế nhị khác mà thôi!.
Trái lại nếu áp dụng phương pháp bí truyền của bản môn, có khả năng dùng được Hoá Thân (Khí) thay cho thân vật lý trong toàn bộ hoạt động của Thân, Khẩu, Ý, thì lại là một thực chứng về "Vô Ngã". Do vậy mà phá "ngã" và diệt "vô ngã" một cách triệt để. Nên đạt tự do tuyệt đối và nhập pháp giới trọn vẹn.
Tóm lại: Như vậy vấn đề cốt lõi là luôn luôn thường trụ khí. Nghĩa là dùng chánh niệm vận dụng khí trong toàn bộ hoạt động của Thân, Khẩu, Ý.
- Bầu trời Tâm khi ấy không còn một áng mây, không còn ta và người, không còn Phật và chúng sanh, có và không, ngã và vô ngã... Tất cả chỉ còn lại là hư không mênh mông im lặng tột cùng. Khi ấy người tu tập đạt trạng thái tự do tuyệt đối, an lạc tuyệt vời, không còn gì ràng buộc nữa, gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn.
- Đây là bớ mé của Tạng thức Sơ Năng Biến (Thức thứ 8). Người hành Bồ Tát Đạo không dừng ở đây để thụ hưởng an lạc thiền, mà phải chủ động phát đại nguyện độ chúng sanh (phát Bồ Đề Tâm). Tự làm mất thế không không để lọt vào Tạng thức là biển Diệu Tâm tiếp tục tu tập rữa sạch mọi chủng tử vi tế ẩn sâu ở đáy tâm hồn, lấp sạch mọi rò rỉ (lậu tận), biến Tạng thức thành Bạch Tịnh Thức hay Đại Viên Cảnh Trí, đạt Giác Ngộ hoàn toàn.
V. Kỹ thuật cơ bản của huyền công:Nhiệm vụ của người tu huyền công là dùng Hóa Thân (Khí) thay thế thân Vật Lý (Sắc thân) trong toàn bộ hoạt động của Thân, Khẩu, Ý. Khiến sắc thân vẫn tu tập sinh hoạt bình thường nhưng không gây ra nghiệp lực, vì hoạt động là vô ngã tự nhiên hành. Do vậy mà thoát luân hồi, đạt giải thoát.
Các bài tập của huyền công nhằm giúp người tu tập áp dụng dần kỹ thuật trên. Từ việc nhỏ đến việc lớn, từ việc đơn giản đến quan trọng, từ những sinh hoạt thường nhật như: ăn, uống, ngủ, nghỉ ... đến cảm hứng: nghệ thuật; sáng tạo văn học; âm nhạc; thi ca; hội họa v.v... Từ các động tác bình thường như: đi, đứng; nằm, ngồi v.v... đến các động tác kỹ xảo như: múa; võ thuật; biểu diễn nghệ thuật; điều khiển huấn luyện v.v...
Các hoạt động của Hóa Thân (Thể Khí) do vô ngã nên thoát khỏi sự kiềm kẹp, đè nén của ý thức nhị nguyên. Do vậy mà độc đáo, bay bổng, sáng tạo tuyệt vời, phóng khoáng, hợp với tự nhiên và biến dịch của trời đất. Có nghĩa là với con người thanh tịnh (Hóa Thân), đời sống người tu tập phong phú sống động, tràn đầy năng lực, sống hết mình, cống hiến hết sức với hiệu quả ngày càng cao hơn. Và thật sự, con người vật lý thuận với qui luật biến dịch, đã tiến hóa thành người thanh tịnh, hoàn thiện hơn là Hóa Thân.
Do các yêu cầu nêu trên, nên phương pháp được chia làm 3 nhóm bài tập cơ bản sau:A/ THIỀN ĐỘNG: Gồm các nhóm bài tập về luyện xác, luyện hơi thở, luyện ý chí tư tưởng. Để nhằm kích hoạt luân xa, nhận được điển quang chư Phật, thúc đẩy Kundakini dâng lên trong Sushumna, từng bước khai mở các luân xa thể nhập các trạng thái thanh tịnh thân (hóa thân) để cuối cùng đột phá Sahasrara nhập vào biển Diệu tâm của chư Phật.
B/ THIỀN TỊNH: Gồm các nhóm bài tập thư giãn, sổ tức quán, thường trụ chánh niệm, quán niệm, tâm không, quán như huyễn, bồ tát đạo.
C/ THIỀN MẬT: gồm các nhóm bài tập về Mahamudra, Mahadalani, Mahamantra, thiền quán YIDAM, niệm Phật tam muội, thường trụ Tam Bảo, và nhập pháp giới.
THẬP BÁT LA HÁNLA HÁN (Arhat): Là người tu hành đã thoát khỏi vòng luân hồi nhưng chưa thành Phật, đạt thể thân thanh tịnh thứ 5 và dưới mức Bồ Tát. Phật giáo cho rằng các vị La Hán còn ở lại trần thế để giúp chúng sanh siêu thoát. Khởi đầu ở Ấn Độ chỉ có 16 vị La Hán. Nhưng do sai lầm từ việc dịch từ tiếng Sanskrit ra tiếng Hán, hoặc do những lý do khác, chùa Trung Quốc, Việt Nam, Tây Tạng đều thờ 18 vị La Hán. Có ý kiến cho rằng 18 vị La Hán chính là những tên cướp Trung Quốc cải tà qui chánh tu theo đạo Phật.
- Khi mới tập cơ bản, phải tập thiền TỊNH, tuân thủ giới luật, và có sinh hoạt hợp đạo pháp trước nhằm tạo nền tảng vững chắc, để không lạc vào tà đạo. Sau đó mới tập thiền ĐỘNG để tạo công năng nhằm độ sanh và thúc đẩy nhanh quá trình tu tập. Có thể nói thiền TỊNH là Bát Nhã, thiền ĐỘNG là Đại Bi, luôn phải phối hợp song hành với nhau mới đảm bảo hiệu quả và an toàn. Sau cùng mới tập thiền MẬT, nhằm mục đích hợp nhất với chư Phật, hoạt dụng độ sanh và nhập niết bàn trọn vẹn.
Trước khi vào phần thực hành cụ thể, để đảm bảo hiệu quả và an toàn. Hành giả phải nắm vững các vấn đề then chốt sau:
1) Trong kỹ thuật thiền Mật thường có sử dụng các linh tượng cũng như các chủng tự để quán tưởng. Thiền nhân phải có niềm tin vững chắc và lòng sùng kính cao độ. Nếu nghi ngờ hoặc mất niềm tin sẽ không hiệu quả. Tuy nhiên không phải các ảnh tượng này có thần thông có thể đáp ứng tùy tiện các yêu cầu của người đời với tâm tham dục. Mà chính các chuyển hóa tâm lý khi quán tưởng ảnh tượng của các Ngài cũng như các chủng tự thiêng liêng sẽ đưa tâm hành giả vào thế định cần thiết. Giúp hành giả giao hòa tâm mình với hình tư tưởng do cộng lực của vô lượng vô biên chúng sanh từ vô lượng kiếp cùng thực hành đồng một phép quán tưởng này tạo nên. Các hình tư tưởng này thực sự là mã khóa giúp sóng ý nghĩ của thiền nhân giao hòa được với các kênh năng lượng thiêng liêng tương ứng. Sau đó bằng kỹ thuật tổng lực bí truyền của bản môn hành giả mới có thể vận hành được các kênh năng lượng này theo trí tuệ thăng hoa của mình.
Tóm lại, bằng lòng sùng kính, thiền nhân xử dụng hình ảnh, âm thanh và các pháp hữu tướng khác như là pháp phương tiện giúp định tâm. Đồng thời thúc đẩy năng lượng trong tự thân thăng hoa giao hòa một phần hay toàn diện với nguồn năng lượng toàn năng, trung tính và không hữu nhân cách. Nếu không nắm vững vấn đề này, thiền nhân rất dể lạc vào đa thần giáo.
2) Giác ngộ là hoa của cây trí tuệ, là trí huệ tối thượng vì vượt lên trên trí tuệ thông thường chứ
không phải là không trí tuệ. Không trí tuệ sẽ dẫn đến mê tín và lạc vào tà đạo.
3) Yên lặng và thanh tịnh là mẹ đẻ của nghệ thuật và sáng tạo đích thực.Bởi nó có hương thơm của các rung động thuần khiết, có hào quang muôn màu muôn vẻ của nguồn năng lượng vô biên khi chiếu qua hạt ngọc trong suốt của tâm không, có âm nhạc huyền diệu của vô thức toàn năng. Đó chính là thực âm khởi lên từ bản hòa ca không tiếng động khi "ngã không" về với "pháp không".
Bởi vậy đừng bao giờ tập thiền mật với tâm vọng động và với thái độ nôn nóng hấp tấp.
Hãy an nhàn, từ tốn và tịch lặng trong mọi lúc có thể được.
4) Như người xem hát, thưởng thức cái hay của cả vai trung lẫn vai nịnh, nhằm mục đích giải trí và vì nhu cầu văn hóa của mình. Chứ không nhầm sân khấu với đời thực. Để đi vào thiền mật, thiền nhân hãy trở thành khán giả của vở tuồng đời mình. Trụ ở thế tịnh, ở "CON NGƯƠI THẬT" thưởng thức mọi sự buồn vui, mọi thuận lợi cũng như thất bại của diễn viên "THẰNG TÔI" trên sân khấu trần gian, nhằm mục đích giác ngộ. Đừng bao giờ nhầm diễn viên với khán giả. . .!. . Đừng bao giờ nhầm sân khấu với thực tướng của pháp giới. . !.
Như vậy khi không ngộ nhận vai diễn của mình là sự thực, thiền nhân đạt trạng thái an lạc của thể niết bàn. Trái lại bất kỳ khi nào nhầm tưởng vai diễn của mình là sự thực của cuộc đời, thiền nhân thực sự đang bị huyễn cảnh của tâm thức đưa vào luân hồi đau khổ.
Bởi vậy :
Hỡi thiền nhân, hãy trở thành chứng nhân. . !. . .
5) Để bổ trợ cho việc tập luyện, thiền nhân phải có một chế độ ăn uống và một môi trường sinh hoạt thích hợp. Nên ăn chay và không dùng các chất kích thích. Tuy nhiên phải ăn uống hợp vệ sinh và đủ chất dinh dưỡng, nếu khổ hạnh ép xác làm thể xác suy yếu, việc tu tập sẽ thất bại. Môi trường sinh hoạt thích hợp nhất là thiên nhiên có cây xanh, nước, không khí trong sạch, yên tĩnh , cách xa bạn xấu và thường gần gũi thiện tri thức.
6) Như con chim bay bằng hai cánh của mình. Thiền nhân phải phối hợp các bài tập một cách hợp lý. Vừa luyện xác vừa luyện tâm, vừa thiền động vừa thiền tịnh một cách cân đối để có thể phát triển một cách toàn diện
7) Nếu chỉ cố công tập luyện vì mục đích giải thoát cho riêng mình, thiền nhân không thể vượt qua thể thứ 5 và thực sự chưa giác ngộ trọn vẹn do vậy thần thông và trí tuệ chưa phát triển đúng mức được. Trong thực hành thiền mật nếu thiền nhân không phát đại nguyện theo gương chư Phật hành đạo cứu đời sẽ không có khả năng phát công trị bệnh tập thể mà chỉ có khả năng tác động từng người, nhưng cũng chỉ cứu được những bênh nhẹ mà thôi. . !
Như vậy phải hành Bồ tát đạo mới chứng quả rốt ráo được.
8) Vì mục đích độ sanh, nên phải đắc thần thông để dùng làm pháp phương tiện. Tuy nhiên thần thông là con dao hai lưỡi, nếu không khéo sử dụng sẽ bị đứt tay. Do vậy kẻ nào tham pháp thuật thần thông vì cái ngã tham dục, muốn mượn đạo tạo đời, thì chẳng khác chi đứa bé kia vì ham chút mật dính trên lưỡi dao, le lưỡi liếm sẽ bị họa đứt lưỡi.
Nhất thiết chỉ được tập huyền công với tâm bình và tịnh. Thường ngày phải áp dụng pháp môn "thường trụ chánh niệm" để luyện tâm. Theo đấy mỗi khi vọng niệm vừa khởi lên, giác tánh lập tức thấy nó ngay, kiến chiếu vọng niệm liên tục cho đến khi nó tan đi mới thôi. Như vậy tâm sẽ không bị rối loạn và phan duyên theo vọng niệm.
Hãy an trú trong hiện tại, thường trụ chánh niệm, tập thần thông với tâm bình và tịnh.
9) Người tu thiền mật, hợp nhất với thầy độ mạng YIDAM của mình, thông qua Ngài vận hành các kênh năng lượng siêu nhiên để tu tập và độ sanh là mục tiêu hàng đầu. Được như vậy gọi là thường trụ khí hay thường trú tam bảo. Tuy nhiên phải phân biệt thường trụ khí chứ không phải lúc nào cũng thụ khí. Thường trụ khí phải tự xảy ra do tu luyện đúng cách thì mới có lợi. Còn lúc nào cũng thụ khí, cũng quán tưởng Yidam, tạo một dồn nén quá lớn vượt quá ngưỡng chịu đựng của cơ thể là có hại. Không khác chi, phải ăn uống đủ chất dinh dường cơ thể mới mập mạp khỏe mạnh được. Nhưng ăn uống vô độ không phút nào ngừng để mong chóng mập khỏe thì nhất định sẽ bị bội thực.
Như vậy phải tinh tấn tu tập một cách chừng mực thích hợp với sự phát triển tự nhiên của cơ thể. Đủ ngày giờ tình trạng thường trụ khí và hợp nhất toàn diện với Yidam sẽ tự xảy ra. Tuyệt đối không được nôn nóng đốt giai đoạn.
10) Tương tự như trên, dùng điển quang trong mọi hoạt động của thân khẩu ý trong cuộc sống thường ngày là pháp môn tối thượng vì sẽ dẫn đến đạt ngã không và pháp không để thể nhập niết bàn tối thượng. Tuy nhiên phải phân biệt, mọi hành động của thân khẩu ý đều làm bằng điển quang là một tình trạng tự nhiên xảy ra, do công phu tu tập lâu ngày mà tự thành.
Nó là một khả năng do tu tập đúng phương pháp và đủ ngày giờ để tự xuất hiện thì mới có lợi Còn trái lại lúc nào cũng thụ khí, nhận điển quang để áp dụng vào các hoạt động của thân khẩu ý, sẽ dẫn đến quá sức vì vượt quá ngưỡng chịu đựng của cơ thể.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
nhoctaba said:
Huệ Hải
Bài 1 : TÂY DU KÝ VÀ TIẾN TRÌNH TU TẬP
Tây Du Ký là một đại tác phẩm. Ngoài giá trị về văn chương nghệ thuật, nó còn bao hàm một ý nghĩa triết học sâu sắc. Cuộc đời hoạt động của 5 thầy trò Đường Tăng, nhất là nhân vật Tôn Ngộ Không (Tề Thiên), minh họa rất rõ nét quá trình tu tập gian khổ của chúng sanh vô minh trên con đường thăng hoa tiến hóa, tự hoàn thiện chính mình, để thực chứng giác ngộ và thể nhập cảnh giới an lạc Đại Niết bàn (Nirvanakanya).Đặc biệt nó cũng rất trùng hợp với các giai đoạn hành thiền theo phương pháp của bản môn. Theo đây từng giai đoạn tu tập, lý do tại sao phải tập thiền động trước, kỹ thuật thiền năng lượng, kỹ thuật dụng tâm quán thân của thiền tịnh, phương pháp trụ vào giác tánh làm chứng nhân cho các biểu hiện tâm sinh lý lúc hành thiền cũng như trong đời sống, kỹ thuật giao hòa và vận hành các kênh năng lượng vũ trụ để hoạt dụng độ sanh, thậm chí đến các bài luyện xác cụ thể như võ thuật, dưỡng sinh, nội lực, huyền công ... tác phẩm cũng miêu tã rõ ràng chi tiết và đều rất trùng hợp với các bài luyện công trong phương pháp hành thiền của chúng ta.
Như vậy tác phẩm có thể xem như một giáo án vĩ đại, cụ thể và chi tiết về các giai đoạn hành thiền. Nên để có một cái nhìn tổng quát, về các giai đoạn tiến hóa cũng như phương cách vận dụng các yếu tố tâm lý, phối hợp giữa tâm lý và năng lượng trong phương pháp hành thiền. Chúng ta có thể liên tưởng tới những nhân vật, tình tiết, và hoạt cảnh sinh động đã được miêu tả trong tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Việc làm này sẽ đem lại nhiều lợi ích thực tiễn cho những ai thực sự muốn hội nhập với con người thật của mình. Thực sự muốn tìm được con đường tiến tới chân hạnh phúc với một cuộc sống đích thực ngày càng có ý nghĩa hơn.
Phương pháp hành thiền của chúng ta có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn thiền Động:
Là giai đoạn thiền nhân định tâm, tập trụ vào giác tánh, giữ chánh niệm trong lúc thiền định và trong cuộc sống. Đạt tình trạng nhận điển quang, tập làm chủ luồng năng lượng này. Trụ vào giác tánh sử dụng nguồn năng lượng này để thăng hoa tiến hóa lên những mức độ thanh tịnh hơn.
- Giai đoạn 2 thiền Tịnh:
Dụng tâm quán tâm. Trụ vào thể tịnh làm chứng nhân cho mọi biểu hiện tâm lý. Diệt trừ vọng niệm. Đạt tâm không, nhập định và thực chứng Prajnaparamita (Bát Nhã Ba La Mật Đa).
- Giai đoạn 3 thiền Mật:
Nhận điển quang chư Phật chư Bồ Tát. Phát đại nguyện hành Bồ Tát Đạo. Thông qua Yidam của mình, vô ngã hoạt dụng độ sanh.
Giai đoạn 1 - Vận động trên nền đất cứng.
Giai đoạn 2: Thiền Tịnh
Một lớp Thiền tịnh (quán không)
Quán niệm, quán không, trung quán song chiếu, tâm không, và nhập định lần thứ nhất (Samadhi) Đạt Ngã Không...
Các bài tập trên tương ứng với Tây Du Ký. Ở giai đoạn Tề Thiên lên Thiên Đình làm Bật Mã Ôn, làm quan không quản lý bộ nào, coi vườn đào Tiên ăn trộm đào, uống linh đan, đạp vỡ lò bát quái của Thái Thượng Lão quân, đại náo thiên đình, bị đè ở Ngũ Hành Sơn. Và được Đường Tăng cứu thoát.
Giai đoạn 3: Thiền Mật
Thiền mật (Mahamantra)
Phát đại nguyện, giao hòa và vận hành các kênh năng lượng vũ trụ, vừa tu vừa hành đạo độ sanh. Nhận điển quang chư Phật chư Bồ Tát. Nhập định dùng kỹ thuật tổng lực: (Mahamudra)+MahaDalani+ MahaMantra) thực hành các pháp môn của Mật tông. Các bài tập này tương tự với giai đoạn thầy trò Đường Tăng thấy xác mình trôi trên sông. Gặp Phật Tổ Như Lai, thỉnh được kinh vô tự tại chùa Lôi âm (với Lôi là điển quang, Âm là Dalani). Vì giai đoạn này thiền nhân tu tập bằng điển lực, trong trạng thái vô ngã, thông qua vị thầy độ mạng Yidam của mình. Thiền nhân thực chứng Ngã không và Pháp Không.
- Giai đoạn 5 Thầy trò Đường Tăng thỉnh được kinh trở về. Tương ứng với giai đoạn thiền nhân vì đại nguyện độ sanh nên hành trì kinh đại thừa bằng huyền công qua các bài tập: Chuẩn Đề Dalani, Đại bi huyền công, Thủ lăng nghiêm huyền công, Thập chú huyền công.
Sau đây là một số gợi ý ban đầu về sự liên tưởng giữa Tây Du Ký và các giai đoạn hành thiền:Cuộc hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh của 5 thầy trò Đường Tăng tượng trưng cho quá trình rèn Tâm của thiền nhân (Phật giáo) đó là quá trình rèn luyện để nhằm thăng hoa chuyển biến các yếu tố: Năng lượng (Tề Thiên), tính thiện (Đường Tăng), Dục tính (Bát Giới), tính sân (Sa Tăng), tính si (ngựa trắng) cho đến ngày Giác ngộ hoàn toàn (gặp Phật Tổ Như Lai) và hành Phật sự độ sanh (thỉnh được kinh mang về).
Cuộc đời hoạt động của nhân vật Tề Thiên tương ứng với quá trình luyện Tinh hóa khí, luyện Khí hóa Thần và luyện Thần hoàn Hư trong Khí công và Tiên Đạo.
Nó cũng tương ứng quá trình hành công thúc đấy Kundalini vươn lên trong kênh Sushuma, đột phá qua 7 luân xa để thực chứng giác ngộ trong Yoga (Ấn giáo).
Dưới đây là sơ đồ minh họa cuộc đời hoạt động của Tề Thiên, so sánh với phương pháp luyện nội hỏa (Kundalini) của Yoga và phương pháp luyện khí của Khí công Tiên đạo Trung Quốc và phương pháp hành thiền của chúng ta:
Chú thích hình đồ trên:a) Điều khí theo vòng Châu Thiên:
Điều khí theo Nhâm mach: ( -----> âm): Khởi sự điều khí đi xuống lần lượt qua các huyệt sau: Liên tuyền, Thiên Đột, Đản Trung, Cửu vĩ, Thần khuyết, Khí Hải, Hội Âm. Tại đây hàm hung bạt bối đẩy khí qua huyệt Trường Cường thuộc Đốc Mạch. Xong tiếp tục dẫn khí theo Mạch Đốc.
Điều khí theo Đốc Mach: ( -----> Dương): Khởi sự từ huyệt Trường Cường dẫn khí ngược cột sống lên đỉnh đầu. Lần lượt qua các huyệt sau: Trường Cường, Đương Quan, Mệnh Môn, Tâm Du, Đại Chùy, Ngạnh Trung, Bách Hội, Ấn Đường, Ngân Giao. Đến đây vì lưỡng đang cong lên đụng lợi hàm răng trên. Nên từ Ngân Giao ở lợi hàm răng trên tiếp tục đẩy khí qua huyệt Liêm Tuyền thuộc Nhâm mạch. Kết thúc một vòng châu thiên. Sau đó lại tiếp tục điều khí như trước.
b) Điều khí theo hệ thống 7 Chakaras (luân xa):
Điều khí theo đường thẳng đứng lần lượt từ dưới lên đỉnh đầu: Hợp nhất âm dương trong kênh trung đạo Sushuma. Nội hỏa là Kundalini thăng hoa đột phá qua 7 luân xa. Thiền nhân hợp nhất với đấng toàn năng, thực chứng giác ngộ.
c) Đường đi của Tề Thiên:
Tác phẩm có thể chia làm hai phần. Phần thức nhất là các hoạt động của Tề Thiên trước khi gặp Đường Tăng. Phần thứ hai các hoạt động của 5 thầy trò sau khi Đường tăng xuất hiện. Có thể xem đường đi của Tề Thiên trải qua 7 giai đoạn tương ứng với 7 luân xa trong kỹ thuật luyện khí:
1) Làm vua tại động Thủy Liêm núi Hoa quả tương ứng với việc Kundalini nằm tại luân xa 1 (Muladhara).Tượng trưng cho tâm thức vô minh, luôn nô lệ bản năng.
2) Học đạo với Tổ Sư Bồ Đề tại động Tà Nguyệt Tam Tinh thuộc núi Linh đài Phương Thốn, giai đoan khai mở luân xa 2 ( Swadhisthana), Thiền nhân đạt tình trạng đắc khí và có thể điều khí thưc hiện thiền động.
3) Xuống Thủy Cung lấy áo giáp và thiết bản. Tượng trưng cho giai đoạn thiền nhân khai mở luân xa 3 (Manipura). Đắc một số công năng do thực hành nhất niệm xứ và giữ giới luật trong cơn thiền định..
4) Xuống U Minh Giới đánh thắng ma quỷ, xóa sổ sanh tử. Tượng trưng cho giai đoạn thiền nhân khai mở luân xa 4 (Anahata).Chiến thắng được ác niệm, luôn giữ được chánh niệm trong lúc thức lẫn trong lúc ngủ (vô thức). Do vậy nên có khả năng tập khí công trong giấc ngủ. Đạt khả năng thường trụ khí, nên hoạt động trở thành vô ngã. Vì thế không tạo ra nghiệp lực nên thoát khỏi sanh tử luân hồi.
5) Lên Thiên Đình, ăn đào tiên, uống Linh Đan, đập vỡ lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân, đại náo Thiên Đình. Tượng trưng cho giai đoạn thiền nhân qua tu tập khai mở được luân xa 5 (Vishusdda).Vượt khỏi sự xiềng xích cua tâm thức nhị nguyên. Thưc chứng Ngã không. Thấy cái Tôi là không thực có. Nhập Samadhi lần thứ nhất. Thiền nhân không trụ ở an lạc thiền mà phát nguyện độ sanh (thiện thệ).
6) Chiến đấu thắng ma quỷ. Đưa thầy đi Tây Trúc thỉnh kinh. Tượng trưng cho giai đoạn thiền nhân thiền định tự khai mở luân xa 6 (Ajna). Đi sâu vào tạng thức tiêu dung chủng tử vi tế. Hành Bồ Tát đạo không ngừng nghỉ. Nhập Samadhi lần thứ 2. Thực chứng Pháp Không. Thấy pháp giới cùng là huyền cảnh.
7) Gặp Phật Tổ Như Lai, thỉnh đươc kinh mang về.Tượng trưng cho giai đoạn nội hỏa (khí) đã lên đến đỉnh đầu. Hành giả khai mở được luân xa 7( Sahasrara) nhập samadhi lần thứ 3. Thực chứng Chân Không mà Diệu Hữu. Thể nhập Đại Niết Bàn(Nirvanakanya). Đạt giác ngộ hoàn toàn.
TÂY DU KÝ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN HÀNH THIỀN
Bài 2 : Làm vua tại động Thủy Liêm và tầm sư học đạo.
Sau đây là một số hình ảnh có thể dùng gợi ý cho sự liên tưởng giữa Tây du ký và các giai đoan hành thiền:
A/Tương đương với giai đoan thiền động:
Làm vua tại động Thủy Liêm núi Hoa Qủa:
Hoa Quả Sơn (thế giới bản năng): Cư dân của Hoa Qủa Sơn chỉ toàn là khỉ (loài vật). Tượng trưng cho việc khi năng lượng chưa thăng hoa còn tập trung ở trung tâm dục. Mọi biểu hiện sẽ là bản năng của loài vật. Con người khi ấy chưa khác con vật là bao vì nó luôn nô lệ cho những đòi hỏi của dục tính.
Khỉ ăn tiệc ở động Thủy Liêm: tượng trưng cho nhân sinh quan bản năng. Luôn chạy theo việc thỏa mãn các cảm giác và đấu tranh nhau để sở hữu thật nhiều phương tiện thỏa mãn cảm giác. Xem đó là lý tưởng của cuộc đời.
II) Đi học đạo: Rời động Thủy Liêm, Tề Thiên vượt biển tầm sư học đạo. Tượng trưng cho năng lương bắt đầu thăng hoa trong kênh Sushuma từ luân xa 1 (Muladhara) tiến về luân xa 2(Swadhisthana) trong Yoga. Hay năng lượng toàn thân tập trung về Đan Điền Tinh là Khí Hải. Đây là giai đoạn người tu bắt đầu phát tâm tu tập. Đã biết hướng về nội tâm mình nhưng chưa tìm được minh sư, chưa chọn được pháp môn thích hợp. Về hành thiền thì chưa đắc khí.Tề Thiên bắt chước (Giai đoan tu theo hình tướng, rời bản tâm của mình)
Lúc còn ở động Thủy Liêm chỉ có thế giới của loài vật vì năng lượng còn nằm ở trung tâm dục. Khi người tu cắt đứt sự hướng ngoại khởi sự quán sát nội tâm mình. Năng lượng sẽ bắt đầu đi lên nên Tề Thiên bước vào thế giới của loài người. Khi ấy do bản tính hay bắt chước người khác, tâm bất định, quên mất người thầy vĩ đại nhất là bản tâm thanh tịnh của mình, pháp môn tối diệu nhất là giác tánh của Như Lai. Người tu thường vọng ngoại, nay theo thầy này, mai học pháp môn nọ vì tham pháp, muốn cái gì cũng biết hơn người. Không chuyển tâm tinh tấn thực hành chánh pháp của Như Lai. Nên cuối cùng chỉ vơ được một mớ rác rưởi, làm trò cười cho thiên hạ. Giống như Tề Thiên bắt chước người đời ăn mì, mặc áo, đội mũ, đi giày, ăn ớt . . v v. . . .
Tiều phu chỉ đường (Thượng sư dạy, hạ sư truyền): Cho đến ngày Tề Thiên gặp được người tiều phu chỉ đường đến thọ giáo với Tổ Sư Bồ Đề. Người tiều phu tượng trưng cho vị thiện tri thức hướng dẫn ta đắc khí, phương cách thăng hoa chuyển biến khí, phương cách trụ vào giác tánh của Như Lai. Nghĩa là hướng dẫn ta qui y với vị thầy tại tâm của mình. Đó là minh sư tại thế.
Động Tà Nguyệt Tam Tinh: (Chơn tâm là ngôi chùa tốt nhất, giác tánh là người thầy vĩ đại nhất của Thiền nhân): Qua sự chỉ dẫn của người tiều phu, Tề Thiên đã đến được nơi ở của thầy để học đạo. Đó là động Tà Nguyệt Tam Tinh (chữ Tâm chiết tự ra) thuộc núi Linh Đài Phương Tốn (Hạ Đan Điền, tức Đan Điền Tinh Khí Hải hay luân xa 2 swadhisthana). Tượng trưng cho năng lượng thiền nhân đã thăng hoa đến Đan Điền Tinh và tình trạng ĐẮC KHÍ.
Tổ Sư Bồ Đề: Tượng trưng cho giác tánh của Như Lai trong giai đoạn thiền động. Đây là Yidam, người thầy tại tâm của thiền nhân tại luân xa 2 (hay tại Đan Điền Tinh Khí Hải). Ngài là chứng nhân của toàn bộ biểu hiện vận động và tâm lý khi đắc khí. Ngài tượng trưng chocái tịnh giữa muôn vàn vọng niệm. Khi đắc khí thiền nhân phải qui y với tam bảo. Đó là qui y với Giác tánh của mình gọi là qui y Phật. Luôn tuân theo đúng kinh điển của chư Phật goi là qui y Pháp. Và làm đúng theo lời hướng dẫn của minh sư mình, gọi là quy y Tăng.
Tề Thiên học đạo với Tổ Sư Bồ Đề: Tượng trưng cho nguyên tắc quan trọng của thiền động là: Khi đắc khí, tuyệt đối thiền nhân phải trụ vào thế tịnh và giác tánh của mình. Làm chứng nhân cho mỗi biểu hiện của khí để điều tiết các biểu hiện này luôn chậm rãi, chừng mực, ổn định, điều hòa đúng với quy định. Tề Thiên là năng lượng dục thăng hoa (sattva), Tổ Sư Bồ Đề là giác tánh ( Bodhi). Cả hai phải kết hợp làm một trong kỹ thuật thiền để thành Hóa thân (Bodhísattva).
Lúc mới vào học đạo, vì tập tính hoang dại vẫn con nên Tề Thiên thường chọc phá đồng môn. Tượng trưng cho tiền nhên khi mới đắc khí, độ tịnh của tâm chưa cao nên các biểu hiện sẽ mang nặng vô thức, không chậm rãi, điều hòa ổn định được. Tề Thiên cần phải qui y Tổ Sư Bồ Đề, giữ nghiêm môn qui thì mới đi dần vào khuôn phép. Tượng trưng cho thiền nhân ở giai đoạn này phải giữ nghiêm giới luật và qui y vị thầy tại tâm là giác tánh của mình. Nhờ vậy sẽ có khả năng điều tiết các biểu hiện luôn điều hòa chậm rãi và đúng qui cách.
Một số bài luyện công của Tổ Sư Bồ Đề dạy cho Tề Thiên và đồng môn:
(Tượng trưng cho các bài điều khí luyện công trong giai đoạn thiền động của bản môn)
Hình ảnh Tổ Sư Bồ Đề giảng pháp: Tượng trưng cho pháp nhất thiết phải được truyền qua môi trường trong suốt và cực tịnh của tâm không. Như cây trúc rỗng ruột, tự nhiên thổi qua nó thành bản nhạc với muôn vàn giai điệu. Người giảng phải đắc khí, giữ tâm không, giao hòa với các kênh năng lượng vũ trụ. Và lời giảng thốt ra miệng đều là vô ngã, là âm thanh của tự nhiên. Không có gì tội lỗi bằng truyền pháp qua ý chí và quan điểm cá nhân, làm đánh mất tánh Như Thị của pháp.
Hình ảnh Tề Thiên ngồi nghe pháp: Tượng trưng cho nguyên tắc của người thọ pháp. Phải lấy tâm mà nghe, phải nghe trong tình trạng đắc khí. Phải thọ nhận pháp của Như Lai qua người thầy vô ngã bằng hoàn bộ năng lượng sống của mình. Và hãy để cho chủng tử Bồ Đề phát triển thuận lợi trong bản tâm cho đến ngày nó ra hoa và giải thoát và kết thành trái giác ngộ. Không có gì uổng phí bằng việc nghe pháp bằng tai và hiểu pháp qua suy luận diễn dịch của ý thức nhị nguyên.
Tề Thiên nhảy nhót vui mừng: (Tiệm tu mà đốn ngộ): Hình ảnh Tề Thiên nghe Thầy giảng pháp đến chỗ hay hiểu được vì quá vui mừng nên la hét nhảy nhót làm ảnh hưởng đến đồng môn. Tượng trưng cho giai đoạn đốn ngộ của thiền nhân. Bởi nghe pháp trong tình trạng đắc khí, rung động chân thành và hợp nhất làm một với lời giảng của Thầy. Nên qua thời gian hạt giống Bồ Đề sẽ mọc thành cây và ra hoa kết trái trong tâm thức thiền nhân. Khi ấy người tu thấy được con đường giải thoát rõ ràng minh bạch và biết chắc rằng nhất định mình sẽ thành chánh quả. Nên niềm vui vô bờ trào dâng, niềm sung sướng vô biên sẽ làm rung động cả người. Như từ trong tối bước ra ánh sáng. Như người bị giam giữ lâu ngày được tự do. Như được gặp lại người thân yêu nhất qua bao ngày xa cách.
. . .Trạng thái Satori sẽ mang lại niềm phúc lạc lớn lao chưa bao giờ có. Nếu chưa đạt trạng thái này thiền nhân thật sự chỉ là bậc dự lưu (đứng trên bờ).
Tuy nhiên vì Tề Thiên tượng trưng cho năng lượng khí trong cơ thể. Bởi vậy các biểu hiện của trạng thái Đốn Ngộ xuất hiện trong nội tâm chứ không phải lúc ấy thiền nhân có động tác nhảy nhót la hét như Tề Thiên. Satori là trạng thái nở hoa của tâm thức, khi cái tịnh của tâm hồn thiền nhân đã thấm sâu và tận miền sâu thẳm, để cùng rung động với linh hồn sự vật.
Thầy trò vấn đáp (Thiền ngữ): Khi Tổ Sư đưa ra 3 pháp môn: Trừ tà diệt quỷ, ăn chay niệm Phật tạo phước, tham thiền nhập định. Tề Thiên đều không đồng ý. Mà chỉ muốn học pháp môn trường sanh bất tử. Đây là cách nói của thiền gọi là thiền ngữ. Cả người hỏi lẫn người trả lời đều ở trong trạng thái thiền, và cùng đề cập đến 2 mặt của một vấn đề. Nên gọi là siêu lý, vì thường không phù hợp với luân lý nhị nguyên thông thường. Ở đây vấn đề là giác ngộ. Tổ sư nói về các phương tiện để giác ngộ, Tề Thiên nói về tính rốt áo, thường trụ tịch lặng của bản thể. Giai đoạn này tượng trưng cho thiền nhân sau khi ngộ, phân biệt được phương tiện và mục đích cuối cùng của việc tu tập. Do vậy phát đại nguyện thành Phật, không trụ ở thần thông pháp thuật hay các quả vị công đức khác. Đây là điều kiện tối cần thiết để thiền nhân có thể tiến tu lên những mức độ ngày càng cao hơn, cho đến ngày giác ngộ hoàn toàn.
Tương tự như thiền ngữ. Thiền cơ là hành động của thiền nhân trước một vấn đề nào đấy. Sự việc phản ánh như thật qua Tâm trong suốt cực tịnh của Bát Nhã Ba La Mật Đa nếu hiển thị bằng lời nói thì gọi là thiền ngữ. Còn nếu hiển thị bằng động tác thì gọi là thiền cơ. Bởi vậy thiền cơ chứa nội dung siêu lý qua thiền, mà không thể hiện tính logic nhị nguyên của sự việc. Do đó thiền cơ chỉ có thể cảm nhận và hiểu đúng nội dung khi người thọ nhận cũng trong trạng thạng thiền và thể nhập tam không. Vì thế cùng một lời giảng, cùng một động tác thị phạm của minh sư. Nếu thực sự đắc thiền và đạt tâm không, tự nhiên người thọ nhật sẽ hiểu được Mật nghĩa. Do vậy học được mật pháp, còn những người khác cũng cùng thọ pháp nhưng chạy theo hình tướng, không trụ tâm ở thể tịnh và giác tánh của Như Lai, luôn phan duyên theo vọng niệm, không lắng tâm hồn mình để vào được trung tâm vấn đề là bản thể của sự việc, thì nhất định chỉ học được phần hiển giáo của pháp mà thôi. Đó là yếu lĩnh của Mật tông. Chứ Mật không có nghĩa là minh sư của mình giấu pháp không chịu công truyền cho mọi người. Bởi nếu như vậy sẽ phạm vào giới luật vì mất tình bình đẳng của Phật môn. Tổ sư đánh Tề Thiên, chỉ một mình Ngài hiểu được thiền cơ này. Nên chỉ một minh Ngài học được 72 phép biến hóa của Tổ Sư.Tổ Sư đồng ý dạy Mật pháp cho Tề Thiên (Lễ quán đảnh) Đến giai đoạn này Bodhísattva được gọi là Yidam
Tổ sư gõ lên đầu Tề Thiên 3 cái. Tề Thiên hiểu được thiền cơ này nên canh 3 đêm ấy vào xin học tối thượng pháp. Tổ Sư đồng ý truyền dạy 72 phép thần thông. Giai đoạn này tượng trưng cho thiền nhân đã tiến đến giai đoạn chót của thiền động. Khả năng trụ vào giác tánh của định tâm đã cao nên bắt đầu học được huyền công của bản môn. Nghĩa là thông qua Yidam của mình bắt đầu học huyền công bằng kỹ thuật tổng lực: Mahamudra + mahamantra + mahadalani. Minh sư tại thế giúp môn sinh mình nhận được kênh năng lượng vũ trụ đặc thù của họ để học các pháp bất tư nghì là ý nghĩa thực sự của lễ quán đảnh trong Mật tông. Chứ không phải các nghi thức rườm rà phiền toái và nặng phô trương để thị uy.
Hình ảnh Tề Thiên, sau khi học đạo trở về, chiến thắng Ma quân, giành lại động Thủy Liêm. Tượng trưng cho tâm thức thiền nhân sau khi học xong giai đoạn thiền động, đã khải mở luân xa 2 (swadhísthana), độ tịnh của tâm đã khá hơn, đã quen trụ giác tánh làm chứng nhân cho mọi biểu hiện vận động và tâm lý. Do vậy thiền nhân dễ dàng chiến thắng ác niệm, nhất là các cám dỗ và các niệm về ác. Cũng như rác hôi thối có hại cho sức khỏe. Nhưng nếu chế biến nó thành phân đem bón cho cây lương thực, nó có thể nuôi sống mọi người. Cũng vậy năng lượng dục qua kỹ thuật Bramacharya đã có thể biến Tinh thành khí, tuy thiền nhân không thể diệt dục được. Vì dục là năng lượng tự nhiên cơ bản của con người, diệt dục cũng là diệt ngay chính bản thân mình, nếu không nói là có thể trở thành gỗ đá vô tri. Nhưng thiền nhân có thể chuyển hóa dục thành năng lượng thanh tịnh hơn gọi là khí, và sử dụng như là phương tiện để đạt giác ngộ. Minh họa cho sự liên tưởng này là hình ảnh Tề Thiên chiến thắng Hỗn Thế Ma Vương. Sau đó lại kết giao với 7 Ma Vương khác. Thu phục và thống lĩnh 72 động chủ, làm thống soái toàn cõi. Tề Thiên chẳng những được 4 khỉ già chỉ đường xuống Long Cung để lấy thiết bản, áo giáp, giày, mũ. Mà còn được toàn bộ yêu ma vương giúp đỡ chống lại thiên binh bảo hộ sơn động, chống lại các yêu tinh khác trên đường đi thỉnh kinh ...vv...