Đây
là một vấn đề khá lý thú và tế nhị. Trước đã có biết bao bậc cao nhân
bàn luận, chắc chắn sau này chẳng thiếu người tiếp tục góp hương góp
sắc. Bạn hỏi đã lâu mà chưa có người thảo luận, sợ bạn buồn chẳng đến
uống trà nửa, quán ế đóng cửa thì tớ bị mất chỗ uống ké. Do vậy bạo gan
trao đổi với bạn dưới góc độ của người tập khí công. Hy vọng đây chỉ là
động tác khơi mào khiến nhiều vị khác ham vui mà đến thì tớ ắt được
nhờ.! . . .hì hì!. . .
Phải chăng Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký chính là khỉ Thần Hanoma
của Ấn giáo? Phải chăng Đường Tam Tạng là hình ảnh Huyền Trang, nhà sư
Trung Quốc mà cuộc Tây Du thỉnh kinh với muôn vàn gian khổ đã đi vào
chuyện truyền khẩu dân gian? Nếu đúng như vậy, có thể nói Ngô Thừa Ân
đã hợp nhất cái siêu thức của người Ấn với cái thực tiễn của người
Trung Quốc để trở thành một thiên bi hùng ca trác tuyệt.
Đứng ở góc nhìn Khí Công, tác phẩm có thể được xem như một giáo án sinh
động vĩ đại. Qua đó kỹ thuật thăng hoa năng lượng Kundalini của Ấn giáo
đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn với tình thiền của Phật giáo để trở
thành phương tiện thiện xảo của người truy tìm chân lý.
Ngoài giá trị về văn chương nghệ thuật, tác phẩm còn minh hoạ rõ nét
quá trình thăng hoa tiến hoá của người hành công, để thực chứng giác
ngộ và thể nhập trạng thái như thị:
I/ Tây Du Ký và các giai đoạn hành công:
Tuỳ theo yêu cầu tập luyện, quá trình hành công có thể chia ra làm
nhiều giai đoạn. Nếu muốn áp dụng yếu lĩnh Tây Du Ký vào việc luyện khí
ta có thể tạm chia con đường: “ Dụng Tinh hoá Khí, dụng Khí hoá Thần,
dụng Thần hoàn Hư” làm 3 giai đoạn:
-Khí công cơ bản: điều thân
-Khí công trung cấp: điều tâm
-Khí công cao cấp: “ Thiên Địa Nhân đồng nhất”
1.Giai đoạn điều thân
Là giai đoạn “Dụng Tinh hoá Khí”. Người tập khí công định tâm, trụ
vào giác tánh, giữ chánh niệm khi hành công và trong cuộc sống. Đạt
trạng thái đắc khí, tập làm chủ luồng năng lượng này, để thăng hoa tiến
hoá lên những mức độ cao hơn. Một số bài tập Khí công thường sử dụng
trong giai đoạn này là:
-Đắc khí tự trị bệnh với các bài tập: Dò ổ bệnh, xoa bóp day bấm huyệt bằng nội lực, điều khí tự trị bệnh, thiên hương khí, lôi hoả châm, . . .
-An thần giảm căng thẳng não với các bài tập: Ngũ Khí công, giải toả stress, thư giãn, thở bụng .v . v . . .
-Luyện cơ bắp thể lực với các bài tập:
Nhu Quyền, Xà Quyền, Dịch Cân Kinh, Thất Tinh Quyền, Côn khí, Nội gia
Thái Cực, Kim Cang Thủ, Nhất nguyên quyền, Trung bình tiên1 và 2, xoa
bóp day bấm huyệt 1 và 2.
-Tập làm chủ khí với các bài tập:
Điều khí vận động các khớp trong cơ thể, Gia giảm khí lực, Quay luân
xa, Điều khí thực hiện các động tác qui định trước, Lượng công, tập khí
công từ xa . v. v. . . .
Liên hệ với Tây Du Ký:
Toàn bộ quá trình “Luyện Tinh hoá khí” ở trên, đã được Ngô Thừa Ân
tiểu thuyết hoá trong Tây Du ký rất sinh động. Tương ứng với giai đoạn
Tôn Ngộ Không từ động Thuỷ Liêm núi Hoa Quả, vượt biển đi học đạo với
tổ sư Bồ Đề, xuống Thuỷ Cung lấy áo giáp và thiết bảng, xuống U Minh
giới chiến thắng ma quân, xoá sổ sinh tử. Đây là toàn bộ các khả năng
Tôn Ngộ Không chuẩn bị để sau này có thể đại náo thiên đình. Tương ứng
với giai đoạn động công, nhằm chuẩn bị cho người hành công đầy đủ khả
năng về tâm lý cũng như năng lượng để có thể thực hành việc điều tâm có
kết quả, có thể nhập định an toàn hiệu quả, vượt qua giới hạn của tâm
trí nhị nguyên tiến vào trạng thái bất tư nghì của giai đoạn “Thần hoàn
Hư”.
2.Giai đoạn điều tâm:
Là giai đoạn “ Dụng Khí hoá Thần”. Người luyện Khí, dụng tâm quán
tâm. Trụ vào thế tịnh làm chứng nhân cho mọi biểu hiện tâm lý. Diệt trừ
vọng niệm. Đạt tâm không, thực chứng trạng thái “ Thần hoàn Hư”nghĩa là
vượt khỏi xiềng xích của tâm trí nhị nguyên, thể nhập trạng thái rỗng
không phản ảnh như thị.
Một số bài tập Khí công thường sử dụng trong giai đoạn này là:
-Tập chánh niệm và tỉnh giác với các bài tập: Quán hơi thở, quán khí, quán động tác, quán âm, hiệp khí viên dung, thanh tịnh lục căn. v. v. .
Liên hệ với Tây Du Ký:
Toàn bộ quá trình trên được Ngô Thừa Ân tiểu thuyết hoá trong Tây Du ký
tương ứng với giai đoạn Tôn Ngộ Không lên thiên đình làm Bật Mã Ôn, làm
quan không quản lý bộ nào. Coi vườn đào tiên, ăn trộm đào, uống linh
đan, đập vỡ lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân, đại náo thiên đình,
bị đè ở Ngũ Hành Sơn và được Đường Tam Tạng cứu thoát.
3.Giai đoạn “Thiên Địa Nhân” đồng nhất:
Do vượt khỏi nhị nguyên nên người luyện khí vượt khỏi ranh giới ta
- người, con người - vũ trụ .v .v . . .thể nhập “Cái MỘT” bất khả phân
của Đạo. Bởi vậy Khí với người là một, tri với hành hợp nhất, Không
điều khí mà khí tự hành, không cố gắng mà luôn có cái biết tự nhiên,
không làm mà làm, không nói mà nói. Ấy là vì trời đất hiển thị qua cái
rỗng không mà thành, chứ không có người làm, không có người thọ. Luôn
nổi trên dòng chảy của Dịch nên tịnh mà cùng biến thiên là vậy.
Một số bài tập Khí công thường sử dụng trong giai đoạn này là:
-Tập giao hoà hợp nhất với môi trường sống và khí bản nhiên:
Thái Thụ Khí, Thái Âm công, Thái Dương công, Chọn vị trí và hướng hành
công, tập khí công trong giấc ngủ, kỹ thuật an toàn về năng lượng, Đại
Thủ Ấn, quán giả, quán không, trung quán song chiếu, áp dụng khí công
vào cuộc sống . v. v. .
Liên hệ với Tây Du Ký:
Toàn bộ quá trình trên được Ngô Thừa Ân tiểu thuyết hoá trong Tây Du ký
tương ứng với giai đoạn 5 thầy trò đường tăng thấy xác mình trôi trên
sông. Gặp Phật Tổ Như Lai, thỉnh được kinh vô tự tại chùa Lôi Âm (tượng
trưng cho trạng thái chân không). Và thỉnh được kinh có chữ mang về
(tượng trưng cho trạng thái diệu hữu).
II/ Hành trạng của từng nhân vật liên hệ với kỹ thuật luyện công:
Cuộc hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh của 5 thầy trò Đường tăng,
tượng trưng cho quá trình rèn luyện thân tâm nhằm chuyển hoá và thăng
hoa cho đến ngày giác ngộ. Trong đấy Tôn Ngộ Không tượng trưng cho năng
lượng khí là phương tiện cơ bản của người luyện công. Đường Tam Tạng
tượng trưng cho cái thiện của tâm trí nhị nguyên, là trạng thái tâm lý
chủ đạo trong việc điều khí. Bát Giới tượng trưng cho tham sân si, cái
thuộc về bản chất, người tu tập không thể diệt trừ mà chỉ có thể chuyển
hoá thành giới định huệ để làm phương tiện giác ngộ. Sa Tăng tượng
trưng cho sự chấp thủ, tuy tinh tấn nhưng chấp chặt vào kinh điển sách
vở, vào nghi thức và các lối mòn tư duy, không có tính cá nhân và tự
phát của thiền. Chấp thủ thuộc về bản chất và do chấp ngã mà thành. Do
vậy không thể từ bỏ được, chỉ có thể chuyển hoá thăng hoa qua con đường
trung đạo, không chấp cũng không bỏ để trở thành chính mình. Ngựa Trắng
vốn là Thái Tử Long Cung hoá thành, tượng trưng cho việc người tu tập
phải biết sử dụng phương tiện để cầu giác ngộ.
1/ Tôn Ngộ Không và con đường thăng hoa của năng lượng:
Tôn Ngộ Không do hòn đá thụ khí âm dương của trời đất mà sinh ra.
Tượng trưng cho khí hay hoả xà kundalini từ bản thể hiển thị mà thành.
Cuộc đời hoạt động của nhân vật Tôn Ngộ Không tương ứng với quá trình
luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần, luyện Thần hoàn Hư theo Khí
Công. Nó cũng tương ứng quá trình hành công hợp nhất năng lượng ở 2
kênh Ida và Pingala thành năng lượng giác ngộ trong kênh trung đạo
Sushuma, thúc đẩy Kundalini thăng hoa đột phá qua 7 luân xa để giao hoà
hợp nhất với năng lượng vũ trụ và thực chứng giác ngộ theo Yoga:
a/Điều khí theo vòng châu thiên (Khí Công):
Khởi sự điều khí đi xuống lần lượt qua các huyệt sau: Liêm Tuyền,
Thiên Đột, Đản Trung, Cưu Vỉ, Thần Khuyết, Khí Hải, Hội Âm. Tại đây hàm
hung bạt bối đẩy khí qua huyệt Trường Cường thuộc đốc mạch. Tiếp theo
điều khí theo đốc mạch dẫn khí đi ngược cột sống lên đỉnh đầu. Lần lượt
qua các huyệt sau: Trường Cường, Đương Quan, Mệnh Môn, Tâm Du, Đại
Chuỳ, Ngạnh Trung, Bách Hội, Ấn Đường, Ngân Giao. Đến đây vì lưỡi đang
cong lên đụng lợi hàm răng trên, nên tiếp tục đẩy khí qua huyệt Liêm
Tuyền thuộc nhâm mạch, kết thúc một vòng châu thiên. Sau đó lại tiếp
tục điều khí như trước. Như vậy khí công điều khí theo đường tròn khép
kín. Bởi Đan điền Tinh( Khí Hải) của Khí Công trùng với vị trí của luân
xa 2 theo Yoga, đan điền Khí (Đản Trung) của khí công trùng với vị trí
của luân xa 4 theo Yoga và đan điền Thần (Ấn đường) của khí công trùng
với luân xa 6 theo Yoga. Hơn nữa đường đi của nhâm đốc mạch theo khí
công lại trùng với đường đi của kênh sushuma. Nên hệ thống 3 đan điền
có thể xem như là 7 luân xa thu gọn lại mà thôi! . .
b/Điều khí theo Yoga:
Người Ấn điều khí theo đường thẳng đứng lần lượt từ dưới lên đỉnh
đầu. Nội hoả Kundalini thăng hoa trong tuỷ sống tiến vào đại não khai
mở 7 luân xa. Hợp nhất nội năng trong cơ thể với năng lượng vũ trụ,
vượt khỏi tâm trí nhị nguyên, thực chứng trạng thái như thị.
c/Đường đi của nhân vật Tôn Ngộ Không:
Có thể xem đường đi của Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký trải qua 7 giai
đoạn tương ứng với 7 luân xa trong kỹ thuật luyện hoả xà của Yoga Ấn
giáo và như vậy đương nhiên nó cũng minh hoạ cho con đường thăng hoa
của khí qua 3 đan điền để tam hoa tụ đỉnh theo quá trình luyện đan của
người Trung Quốc:
- Tôn Ngộ Không tượng trưng cho hoả xà Kundalini hoặc năng lượng
khí do vậy nơi ở của nhân vật này khiến ta liên tưởng đến vị trí các
luân xa hoặc các đan điền:
•Vị trí thứ nhất: Tôn Ngộ Không làm vua tại động Thuỷ Liêm núi Hoa Quả:
Minh hoạ cho việc hoả xà kundalini đang nằm tại luân xa 1
Muladhara. Tượng trưng cho tâm thức vô minh, luôn nô lệ cho bản năng.
Cư dân của Hoa Quả sơn chỉ toàn là khỉ (loài vật). Tượng trưng cho
việc, khi năng lượng còn tập trung ở trung tâm dục. Mọi biểu hiện sẽ là
bản năng của loài vật. Con người khi ấy luôn nô lệ cho dục tính, luôn
chạy theo việc thoả mãn cảm giác và đấu tranh nhau để sở hữu thật nhiều
phương tiện thoả mãn cảm giác. Xem đó là lý tưởng của cuộc đời. Khỉ già
chết minh hoạ cho việc nhân sinh quan cũ sụp đổ, chấm dứt sự hướng
ngoại chạy theo nhu cầu thoả mãn những đòi hỏi thuộc bản năng động vật.
Con người khởi sự hướng nội để tự thăng hoa phát triển về hướng chân
thiện mỹ. Ngô Thừa Ân minh hoạ cho việc này bằng hình tượng Tôn Ngộ
Không quyết định rời Hoa Quả sơn để tầm sư học đạo.
•Vị trí thứ hai: Học đạo với Tổ Sư Bồ Đề tại động Tà Nguyệt Tam Tinh thuộc núi Linh Đài Phương Thốn:
- Lúc còn ở động Thuỷ Liêm chỉ có thế giới loài vật vì năng lượng
còn nằm ở trung tâm dục. Khi người tu cắt đứt sự hướng ngoại, khởi sự
quán sát nội tâm mình năng lượng sẽ bắt đầu đi lên nên Tôn Ngộ Không
bước vào thế giới loài người. Khi ấy do phóng thể người tu thường vọng
ngoại, nay theo thầy này, mai học pháp môn nọ vì tham pháp muốn cái gì
cũng biết cũng hơn người. Không chuyên tâm thực hành chánh pháp của Như
Lai. Nên cuối cùng chỉ vớ được một mớ rác rưởi làm trò cười cho thiên
hạ. Giống như trong tác phẩm Tây Du ký minh hoạ lúc Tôn Ngộ Không bắt
chước người đời ăn mì, mặc áo, đội mũ, đi giày, ăn ớt . .v. v. . .
- Cho đến ngày Tôn Ngộ Không gặp được người tiều phu chỉ đường đến
thọ giáo với Tổ Sư Bồ Đề. Người tiều phu tượng trưng cho vị thiện tri
thức hướng dẫn ta đắc khí, phương pháp thăng hoa chuyển hoá khí, phương
pháp trụ vào giác tánh để khí tự hành. v .v. .Nghĩa là hướng dẫn ta qui
y với vị thầy tại tâm của mình. Thật là tài tình, bằng bút pháp kỳ ảo,
Ngô Thừa Ân đã dùng hình ảnh người tiều phu để minh hoạ cho minh sư tại
thế của người học đạo!
- Bồ Đề là phiên âm của từ Phạn ngữ Bodhi nghĩa là giác tánh. Học đạo
với Tổ sư Bồ Đề ý nói trụ vào giác tánh để tu tập. Tà nguyệt tam tinh
nghĩa là “Một vầng trăng khuyết 3 sao giữa trời”, đây là chiết tự của
chữ tâm, ý nói ngụ tại tâm, Linh Đài Phương Thốn là hạ đan điền trong
kỹ thuật luyện đan của người Trung Quốc. Vậy lần cư ngụ thứ hai này của
Tôn Ngộ Không tượng trưng cho việc khai mở luân xa 2 (swadhisthana) hay
tinh khí thần hợp nhất ở hạ đan điền. Để nội hoả thăng hoa, người hành
công cần phải trụ vào giác tánh làm chứng nhân cho chính mình. Phải tu
tâm nghĩa là “dụng tâm quán tâm” tiêu dung vọng niệm để tiến tới thực
chứng Bát Nhã (praijna). Đây là yếu chỉ của động công, nếu trụ vào ý
thức thì lạc vào tâm trí nhị nguyên nên trạo cử, nếu trụ vào vô thức
thì hôn trầm vô minh. Con đường hành công là trung đạo, nghĩa là ở giữa
nên phi logic. Định thì đắc khí, tịnh thì khí tự thăng hoa.
•Vị trí thứ 3: Tôn Ngộ Không xuống thuỷ cung lấy áo giáp và thiết bảng:
Đối với con người, rốn là nơi cuốn nhau đi vào là đầu mối của sự
sống. Nếu con người được xem là “tiểu vũ trụ” thì rốn là nơi “đại vũ
trụ” mẹ, giao thoa với “tiểu vũ trụ” con. Trong Tây Du Ký, Ngô Thừa Ân
đã hình tượng hoá cây thiết bảng của Tôn Ngộ Không nguyên là cây cột
chống trời, nghĩa là nối liền trời đất. Vậy phải chăng nó như là “cuốn
nhau” của người mẹ vũ trụ. Nơi mà năng lượng khí qua đó nuôi dưỡng mạng
mạch của người luyện công. Hành giả khi ấy như là thai nhi nằm trong
bào thai vũ trụ vậy! . . Cây thiết bảng sau này thành vũ khí lợi hại
của Tôn Ngộ Không khiến ngài có thể đại phá ma quân, hành công đức cho
đến ngày giác ngộ. Tương tự như năng lượng khí của người hành công do
giao lưu hợp nhất với vũ trụ mà có, và đó chính là phương tiện cần
thiết để người tu tập thực chúng giác ngộ vậy! . . . Áo giáp là phương
tiện bảo vệ cơ thể. Đối với người luyện khí công đó chính là vệ khí
hiển thị toàn bộ bề mặt da khi người hành công khai mở được luân xa 3
hay khí công đã vượt qua đan điền tinh tiến đến đan điền khí giữa ngực.
Vậy lần xuống Thuỷ Cung để lấy áo giáp và thiết bảng của Tôn Ngộ Không
phải chăng Ngô Thừa Ân đã tiểu thuyết hoá quá trình khai mở luân xa 3
(Manipura) làm cho vệ khí hiển thị cũng như hành giả có thể sử dụng khí
tuỳ ý như là phương tiện thiện xảo để tu tập và hoạt dụng độ sanh.
•Vị trí thứ 4: Tôn Ngộ Không xuống U Minh Giới đánh thắng ma quỉ và Diêm Vương, xoá sổ sinh tử:
Ngô Thừa Ân đã nhân cách hoá trạng thái “Vô thức” của tâm trí thành
Diêm Vương, chúa tể của cái chết. Bằng ngòi bút phi thường của mình tác
giả đã tiểu thuyết hoá quá trình đắc khí, dụng khí mà không nô lệ vô
thức của người hành công với hình tượng Tôn Ngộ Không chiến thắng Diêm
Vương.
Xoá sổ sinh tử, nghĩa là không bao giờ chết. Tôn Ngộ Không xoá sổ sinh
tử tượng trưng cho việc điều khí trong tỉnh giác không hôn trầm mê muội
hoặc bản năng. Nó tượng trưng cho việc người hành công có cái biết chân
chính: ta không phải cơ thể này, cũng không phải tâm trí này. Mà là
Tánh với thể dụng của nó là khí. Bởi Tánh không sinh ra, không già,
không chết, không thêm gì được vào, không bớt gì được ra, rỗng không mà
ẩn tàng mọi sắc tướng nên gọi là xoá sổ sinh tử. Hành giả luyện công
đến đây sẽ không bao giờ đứt khí.
Đối với người luyện khí công hoặc hoả xà thì thở ra như chết, hít
vào như sống. Hơi thở theo công phu tu tập ngày một chậm dần, nhẹ dần
đi, tương ứng với độ tịnh hoá của thân tâm. Khởi đầu là điều hoà, sau
đó chậm dần nhẹ dần để thành qui tức nghĩa là thở như rùa, tiếp đến là
vong tức nghĩa là thở mà như không thở mà hơi thở thông qua tác động
của khí tự xuất hiện phù hợp với hoạt động thích ứng tình huống. U Minh
Giới là cõi chết. Kỳ diệu thay! . . nó đã được Ngô Thừa Ân dùng để minh
hoạ một cách sinh động trạng thái vong tức của người hành công.
Thế thì phải chăng Tôn Ngộ Không xuống U Minh Giới chiến thắng
Diêm Vương xoá sổ sinh tử. Minh hoạ cho quá trình nội hoả thăng hoa đến
ngực khai mở luân xa 4 ( Anahata) tại đại huyệt đảng trung. Khi ấy
người hành công luôn thường trụ khí do luôn nhận biết tỉnh giác không
nô lệ cho vô thức bản năng. Hơi thở trở thành vong tức.
•Vị trí thứ 5: Tôn Ngộ Không lên Thiên
Đình, ăn đào tiên, uống linh đan, đập vỡ lò luyện đan của Thái Thượng
Lão Quân, đại náo thiên đình.
Theo niềm tin Á đông, thiên đình là cơ quan cai quản mọi sự vận hành
của vũ trụ và thế gian. Nó tượng trưng cho dịch lý nghĩa qui luật biến
dịch khách quan của trời đất, tượng trưng cho thế giới biến dịch sinh
diệt của hiện tượng.Tôn Ngộ không đại náo thiên đình minh hoạ cho người
hành công rời khỏi thế giới hiện tượng để thể nhập bản thể sự vật. Đào
tiên và linh đan là những báu vật thuộc Tiên đạo. Nó tượng trưng và
minh hoạ cho những thành quả hữu tướng thuộc về khí lực và thể lực của
người luyện công. Ăn đào tiên, uống linh đan và đập vỡ lò luyện đan của
Thái Thượng Lão Quân minh hoạ cho quá trình người luyện công sau khi
thực chứng những công năng và thọ nhận được những kết quả diệu kỳ của
việc luyện khí, không tự mãn ngừng ở đây, người hành công phải thăng
hoa lên giai đoạn “luyện Khí hoá Thần” Với đan điền khí giữa ngực và
đan điền thần tại trán thì giai đoạn “luyện khí hoá thần” phải nằm ở
giữa, nghĩa là tại đại huyệt Thiên Đột ở cổ họng thuộc luân xa 5
(víshusdda).
Như vậy hình tượng Tôn Ngộ Không lên thiên đình, ăn đào tiên, uống
linh đan, đập vỡ lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân phải chăng Ngô
Thừa Ân đã dùng để minh hoạ cho quá trình thăng hoa của kundalini trong
kênh sushuma tiến đến các đốt sống cổ khai mở luân xa 5 tại đốt C7.
Người hành công mở đầu cho giai đoạn “luyện khí hoá thần” gây các
chuyển hoá quan trọng về tâm thức để thực chứng bát nhã là trạng thái
“thần hoàn hư” bất tư nghì, sau khi đã thực chứng những công năng và
kết quả diệu kỳ của giai đoạn luyện “tinh hoá khí”.
•Vị trí thứ 6: Tôn Ngộ Không cùng Sa Tăng Bát Giới chiến thắng ma quỉ. Bảo hộ thầy là đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh:
-Tam Tạng người do cha mẹ sinh ra bằng huyết nhục, là người của thế
gian. Khác với 4 thành viên kia : Tôn Ngộ Không, Sa Tăng, Bát Giới,
Ngựa trắng, đều người của thế giới tâm linh. Tuy Tam Tạng yếu đuối,
chẳng có thần thông gì, lại cũng chẳng có trí tuệ hơn 4 thành viên kia
nhưng lại là thầy và là người chủ trì cuộc Tây Du. Cái mà Tam Tạng hơn
4 thành viên kia hoạ chăng chỉ có: đức tin, giới luật, tính thiện,
quyết tâm và sự gia trì bảo hộ của chư Phật chư Bồ Tát. Phải chăng theo
Ngô Thừa Ân đó là những yếu tố cần thiết để sử dụng luồng năng lượng,
thực chứng giác ngộ. Dù suốt quá trình tu tập cái tham sân si của Bát
Giới vẫn còn đấy, cái chấp thủ của Sa Tăng vẫn còn đấy, và vẫn còn cần
đến những phương tiện vật chất nhất định. Thế nhưng nếu nội hoả được
chủ trì bởi một người bình thường không hoang tưởng, người đủ các yếu
tố trên nhất định hành giả sẽ thực chứng giác ngộ. Bởi qua quá trình
trui rèn, nội hoả chẳng những tự hoàn thiện chính mình, liên tục thăng
hoa lên những dạng vi tế hơn thanh tịnh hơn mà còn là động năng giúp
tham sân si chuyển hoá thành giới định huệ, giúp chấp thủ thành xả bỏ
vô trụ tướng, giúp cái thiện nhị nguyên chuyển hoá thành trạng thái bát
nhã của vô ngã.
Con đường thỉnh kinh là con đường luyện tâm với ma quỉ là các dạng
vọng niệm làm rối loạn tâm và 5 thầy trò Đường tăng tượng trưng cho vốn
liếng về thân tâm của người đã đắc khí.
Nếu Tam Tạng nghe lời Tôn Ngộ Không thì chiến thắng ma quỉ. Nếu
Tam Tạng nghe lời Bát Giới thì thường bị ma quỉ bắt. Tượng trưng cho
hành giả nếu bị tham sân si lôi kéo thì thường thất bại trong đường tu
tập dù đã đắc khí. Trái lại người hành công phải sử dụng năng lượng làm
phương tiện thiện xảo để tu tập, phải luôn nương theo tác động của khí
để hiển thị. Tuy nhiên người hành công phải luôn nghiêm trì giới luật
thì mới làm chủ được luồng năng lượng này. Giống như lúc ban đầu Tôn
Ngộ Không quen phóng túng Tam Tạng không thể điều khiển được phải niệm
chú cẩn cô vậy!
Đến giai đoạn này Tôn Ngộ Không dùng tài lực của mình thường không
chiến thắng được ma quỉ. Trái lại ngài phải biết chủ của ma quỉ ấy là
ai, thỉnh vị ấy giá lâm để trừ tà. Phải chăng Ngô Thừa Ân ngầm ám chỉ
việc tiêu dung vọng niệm phải dùng trí tuệ để biết nguyên nhân các niệm
ấy từ đâu mà ra. Nhận biết tỉnh giác nguyên nhân ấy nghĩa là dùng pháp
đối trị thì vọng niệm tự tiêu dung.
Do ma quỉ thường là người nhà của chư Thánh mẫu và Bồ Tát. Nên giai
đoạn này Tôn Ngộ không thường xuyên lên xuống giữa thế giới Bồ Tát và
thế giới chúng sanh. Nếu nội hoả thăng hoa thì điểm cuối cùng là đỉnh
cao nhất của cơ thể, nó phải là đỉnh đầu tại đại huyệt Bách Hội hay
luân xa 7, nơi tượng trưng cho thế giới tâm linh cao tột. Còn từ tuỷ
sống trở xuống (luân xa 5 xuống luân xa 1) thì tượng trưng cho bản
năng. Bởi vậy giai đoạn trung gian giữa tâm linh và thế gian là tại
trán, tại đan điền thần ở huyệt ấn đường, đó cũng là vị trí luân xa 6
(Ajna).
•Vậy hình tượng Tôn Ngộ Không cùng Sa Tăng Bát Giới chiến thắng ma quỉ.
Bảo hộ thầy là đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh nhằm minh hoạ cho
giai đoạn điều tâm “luyện khí hoá thần” của tịnh công. Nội hoả tiến lên
đại não khai mở luân xa 6 (Ajna) cũng có nghĩa tinh khí thần hợp nhất ở
đan điền thần tại đại huyệt ấn đường. Khí hiển thị qua tâm thức “vô
niệm” nên trở thành yên lặng. Nội hoả làm trí huệ phát sinh.
•Vị trí thứ 7: Tôn Ngộ Không cùng cả
đoàn thỉnh kinh gặp Phật Tổ Như Lai, thỉnh được kinh vô tự, rồi sau đó
lại thỉnh được kinh có chữ trở về. Tôn Ngộ Không cùng Tam Tạng đều
thành Phật, Sa Tăng, Bát Giới, Ngựa Trắng đều thành Bồ Tát và là thị
giả của Phật.
- Hình tượng năm thầy trò Đường tăng thấy xác của mình trôi trên sông minh hoạ cho trạng thái vô ngã (anatta) của người tu tập.
- Tôn Ngộ Không gặp Phật Tổ Như Lai tượng trưng cho việc nội hoả
kundalini tiến đến đỉnh đầu khai mở luân xa 7 tại đại huyệt bách hội.
Tôn Ngộ Không thành Phật tượng trưng cho việc nội khí qua luân xa 7 hoà
nhập với biển năng lượng vũ trụ của trời đất.
- Tam Tạng thành Phật tượng trưng cho tâm chánh định thuộc tâm trí
nhị nguyên đã thăng hoa chuyển hoá thành trạng thái rỗng không như thị
của bát nhã. Bởi vậy khi đi thì Tam Tạng đi trên mặt đất như người
thường, khi về thì bay như chư Bồ Tát.
- Bát giới, Sa Tăng, Ngựa Trắng đều đắc quả minh hoạ các yếu tố
khác của người hành công đều được thăng hoa chuyển hoá đến cùng cực.
- Năm thầy trò Đường tăng gặp Phật Tổ, thỉnh được kinh vô tự tượng
trưng cho việc người hành công thể nhập bản thể, thực chứng “chân
không”, thấy Phật pháp phi văn tự mà ẩn tàng trong thế giới hiện tượng.
- Sau đó năm thầy trò Đường tăng lại thỉnh được kinh có chữ mang
về cho người đời. Tượng trưng cho việc người tu tập thực chứng “diệu
hữu”, tuy ở thế giới thanh tịnh mà luôn tuỳ duyên ứng dụng để độ sanh.
Nói xong mà chả thấy trà đâu! . .nhìn quanh cũng chẳng thấy còn
mống nào ngồi nghe!. . .hoá ra mình đã thành Độc Cô Cầu Bậy rồi sao? .
.hì hì! . .không có trà thì đành uống bia vậy! . . .ai có tiền thì rũ
tớ đi với! . . .
Đây
là một vấn đề khá lý thú và tế nhị. Trước đã có biết bao bậc cao nhân
bàn luận, chắc chắn sau này chẳng thiếu người tiếp tục góp hương góp
sắc. Bạn hỏi đã lâu mà chưa có người thảo luận, sợ bạn buồn chẳng đến
uống trà nửa, quán ế đóng cửa thì tớ bị mất chỗ uống ké. Do vậy bạo gan
trao đổi với bạn dưới góc độ của người tập khí công. Hy vọng đây chỉ là
động tác khơi mào khiến nhiều vị khác ham vui mà đến thì tớ ắt được
nhờ.! . . .hì hì!. . .
Phải chăng Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký chính là khỉ Thần Hanoma
của Ấn giáo? Phải chăng Đường Tam Tạng là hình ảnh Huyền Trang, nhà sư
Trung Quốc mà cuộc Tây Du thỉnh kinh với muôn vàn gian khổ đã đi vào
chuyện truyền khẩu dân gian? Nếu đúng như vậy, có thể nói Ngô Thừa Ân
đã hợp nhất cái siêu thức của người Ấn với cái thực tiễn của người
Trung Quốc để trở thành một thiên bi hùng ca trác tuyệt.
Đứng ở góc nhìn Khí Công, tác phẩm có thể được xem như một giáo án sinh
động vĩ đại. Qua đó kỹ thuật thăng hoa năng lượng Kundalini của Ấn giáo
đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn với tình thiền của Phật giáo để trở
thành phương tiện thiện xảo của người truy tìm chân lý.
Ngoài giá trị về văn chương nghệ thuật, tác phẩm còn minh hoạ rõ nét
quá trình thăng hoa tiến hoá của người hành công, để thực chứng giác
ngộ và thể nhập trạng thái như thị:
I/ Tây Du Ký và các giai đoạn hành công:
Tuỳ theo yêu cầu tập luyện, quá trình hành công có thể chia ra làm
nhiều giai đoạn. Nếu muốn áp dụng yếu lĩnh Tây Du Ký vào việc luyện khí
ta có thể tạm chia con đường: “ Dụng Tinh hoá Khí, dụng Khí hoá Thần,
dụng Thần hoàn Hư” làm 3 giai đoạn:
-Khí công cơ bản: điều thân
-Khí công trung cấp: điều tâm
-Khí công cao cấp: “ Thiên Địa Nhân đồng nhất”
1.Giai đoạn điều thân
Là giai đoạn “Dụng Tinh hoá Khí”. Người tập khí công định tâm, trụ
vào giác tánh, giữ chánh niệm khi hành công và trong cuộc sống. Đạt
trạng thái đắc khí, tập làm chủ luồng năng lượng này, để thăng hoa tiến
hoá lên những mức độ cao hơn. Một số bài tập Khí công thường sử dụng
trong giai đoạn này là:
-Đắc khí tự trị bệnh với các bài tập: Dò ổ bệnh, xoa bóp day bấm huyệt bằng nội lực, điều khí tự trị bệnh, thiên hương khí, lôi hoả châm, . . .
-An thần giảm căng thẳng não với các bài tập: Ngũ Khí công, giải toả stress, thư giãn, thở bụng .v . v . . .
-Luyện cơ bắp thể lực với các bài tập:
Nhu Quyền, Xà Quyền, Dịch Cân Kinh, Thất Tinh Quyền, Côn khí, Nội gia
Thái Cực, Kim Cang Thủ, Nhất nguyên quyền, Trung bình tiên1 và 2, xoa
bóp day bấm huyệt 1 và 2.
-Tập làm chủ khí với các bài tập:
Điều khí vận động các khớp trong cơ thể, Gia giảm khí lực, Quay luân
xa, Điều khí thực hiện các động tác qui định trước, Lượng công, tập khí
công từ xa . v. v. . . .
Liên hệ với Tây Du Ký:
Toàn bộ quá trình “Luyện Tinh hoá khí” ở trên, đã được Ngô Thừa Ân
tiểu thuyết hoá trong Tây Du ký rất sinh động. Tương ứng với giai đoạn
Tôn Ngộ Không từ động Thuỷ Liêm núi Hoa Quả, vượt biển đi học đạo với
tổ sư Bồ Đề, xuống Thuỷ Cung lấy áo giáp và thiết bảng, xuống U Minh
giới chiến thắng ma quân, xoá sổ sinh tử. Đây là toàn bộ các khả năng
Tôn Ngộ Không chuẩn bị để sau này có thể đại náo thiên đình. Tương ứng
với giai đoạn động công, nhằm chuẩn bị cho người hành công đầy đủ khả
năng về tâm lý cũng như năng lượng để có thể thực hành việc điều tâm có
kết quả, có thể nhập định an toàn hiệu quả, vượt qua giới hạn của tâm
trí nhị nguyên tiến vào trạng thái bất tư nghì của giai đoạn “Thần hoàn
Hư”.
2.Giai đoạn điều tâm:
Là giai đoạn “ Dụng Khí hoá Thần”. Người luyện Khí, dụng tâm quán
tâm. Trụ vào thế tịnh làm chứng nhân cho mọi biểu hiện tâm lý. Diệt trừ
vọng niệm. Đạt tâm không, thực chứng trạng thái “ Thần hoàn Hư”nghĩa là
vượt khỏi xiềng xích của tâm trí nhị nguyên, thể nhập trạng thái rỗng
không phản ảnh như thị.
Một số bài tập Khí công thường sử dụng trong giai đoạn này là:
-Tập chánh niệm và tỉnh giác với các bài tập: Quán hơi thở, quán khí, quán động tác, quán âm, hiệp khí viên dung, thanh tịnh lục căn. v. v. .
Liên hệ với Tây Du Ký:
Toàn bộ quá trình trên được Ngô Thừa Ân tiểu thuyết hoá trong Tây Du ký
tương ứng với giai đoạn Tôn Ngộ Không lên thiên đình làm Bật Mã Ôn, làm
quan không quản lý bộ nào. Coi vườn đào tiên, ăn trộm đào, uống linh
đan, đập vỡ lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân, đại náo thiên đình,
bị đè ở Ngũ Hành Sơn và được Đường Tam Tạng cứu thoát.
3.Giai đoạn “Thiên Địa Nhân” đồng nhất:
Do vượt khỏi nhị nguyên nên người luyện khí vượt khỏi ranh giới ta
- người, con người - vũ trụ .v .v . . .thể nhập “Cái MỘT” bất khả phân
của Đạo. Bởi vậy Khí với người là một, tri với hành hợp nhất, Không
điều khí mà khí tự hành, không cố gắng mà luôn có cái biết tự nhiên,
không làm mà làm, không nói mà nói. Ấy là vì trời đất hiển thị qua cái
rỗng không mà thành, chứ không có người làm, không có người thọ. Luôn
nổi trên dòng chảy của Dịch nên tịnh mà cùng biến thiên là vậy.
Một số bài tập Khí công thường sử dụng trong giai đoạn này là:
-Tập giao hoà hợp nhất với môi trường sống và khí bản nhiên:
Thái Thụ Khí, Thái Âm công, Thái Dương công, Chọn vị trí và hướng hành
công, tập khí công trong giấc ngủ, kỹ thuật an toàn về năng lượng, Đại
Thủ Ấn, quán giả, quán không, trung quán song chiếu, áp dụng khí công
vào cuộc sống . v. v. .
Liên hệ với Tây Du Ký:
Toàn bộ quá trình trên được Ngô Thừa Ân tiểu thuyết hoá trong Tây Du ký
tương ứng với giai đoạn 5 thầy trò đường tăng thấy xác mình trôi trên
sông. Gặp Phật Tổ Như Lai, thỉnh được kinh vô tự tại chùa Lôi Âm (tượng
trưng cho trạng thái chân không). Và thỉnh được kinh có chữ mang về
(tượng trưng cho trạng thái diệu hữu).
II/ Hành trạng của từng nhân vật liên hệ với kỹ thuật luyện công:
Cuộc hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh của 5 thầy trò Đường tăng,
tượng trưng cho quá trình rèn luyện thân tâm nhằm chuyển hoá và thăng
hoa cho đến ngày giác ngộ. Trong đấy Tôn Ngộ Không tượng trưng cho năng
lượng khí là phương tiện cơ bản của người luyện công. Đường Tam Tạng
tượng trưng cho cái thiện của tâm trí nhị nguyên, là trạng thái tâm lý
chủ đạo trong việc điều khí. Bát Giới tượng trưng cho tham sân si, cái
thuộc về bản chất, người tu tập không thể diệt trừ mà chỉ có thể chuyển
hoá thành giới định huệ để làm phương tiện giác ngộ. Sa Tăng tượng
trưng cho sự chấp thủ, tuy tinh tấn nhưng chấp chặt vào kinh điển sách
vở, vào nghi thức và các lối mòn tư duy, không có tính cá nhân và tự
phát của thiền. Chấp thủ thuộc về bản chất và do chấp ngã mà thành. Do
vậy không thể từ bỏ được, chỉ có thể chuyển hoá thăng hoa qua con đường
trung đạo, không chấp cũng không bỏ để trở thành chính mình. Ngựa Trắng
vốn là Thái Tử Long Cung hoá thành, tượng trưng cho việc người tu tập
phải biết sử dụng phương tiện để cầu giác ngộ.
1/ Tôn Ngộ Không và con đường thăng hoa của năng lượng:
Tôn Ngộ Không do hòn đá thụ khí âm dương của trời đất mà sinh ra.
Tượng trưng cho khí hay hoả xà kundalini từ bản thể hiển thị mà thành.
Cuộc đời hoạt động của nhân vật Tôn Ngộ Không tương ứng với quá trình
luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần, luyện Thần hoàn Hư theo Khí
Công. Nó cũng tương ứng quá trình hành công hợp nhất năng lượng ở 2
kênh Ida và Pingala thành năng lượng giác ngộ trong kênh trung đạo
Sushuma, thúc đẩy Kundalini thăng hoa đột phá qua 7 luân xa để giao hoà
hợp nhất với năng lượng vũ trụ và thực chứng giác ngộ theo Yoga:
a/Điều khí theo vòng châu thiên (Khí Công):
Khởi sự điều khí đi xuống lần lượt qua các huyệt sau: Liêm Tuyền,
Thiên Đột, Đản Trung, Cưu Vỉ, Thần Khuyết, Khí Hải, Hội Âm. Tại đây hàm
hung bạt bối đẩy khí qua huyệt Trường Cường thuộc đốc mạch. Tiếp theo
điều khí theo đốc mạch dẫn khí đi ngược cột sống lên đỉnh đầu. Lần lượt
qua các huyệt sau: Trường Cường, Đương Quan, Mệnh Môn, Tâm Du, Đại
Chuỳ, Ngạnh Trung, Bách Hội, Ấn Đường, Ngân Giao. Đến đây vì lưỡi đang
cong lên đụng lợi hàm răng trên, nên tiếp tục đẩy khí qua huyệt Liêm
Tuyền thuộc nhâm mạch, kết thúc một vòng châu thiên. Sau đó lại tiếp
tục điều khí như trước. Như vậy khí công điều khí theo đường tròn khép
kín. Bởi Đan điền Tinh( Khí Hải) của Khí Công trùng với vị trí của luân
xa 2 theo Yoga, đan điền Khí (Đản Trung) của khí công trùng với vị trí
của luân xa 4 theo Yoga và đan điền Thần (Ấn đường) của khí công trùng
với luân xa 6 theo Yoga. Hơn nữa đường đi của nhâm đốc mạch theo khí
công lại trùng với đường đi của kênh sushuma. Nên hệ thống 3 đan điền
có thể xem như là 7 luân xa thu gọn lại mà thôi! . .
b/Điều khí theo Yoga:
Người Ấn điều khí theo đường thẳng đứng lần lượt từ dưới lên đỉnh
đầu. Nội hoả Kundalini thăng hoa trong tuỷ sống tiến vào đại não khai
mở 7 luân xa. Hợp nhất nội năng trong cơ thể với năng lượng vũ trụ,
vượt khỏi tâm trí nhị nguyên, thực chứng trạng thái như thị.
c/Đường đi của nhân vật Tôn Ngộ Không:
Có thể xem đường đi của Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký trải qua 7 giai
đoạn tương ứng với 7 luân xa trong kỹ thuật luyện hoả xà của Yoga Ấn
giáo và như vậy đương nhiên nó cũng minh hoạ cho con đường thăng hoa
của khí qua 3 đan điền để tam hoa tụ đỉnh theo quá trình luyện đan của
người Trung Quốc:
- Tôn Ngộ Không tượng trưng cho hoả xà Kundalini hoặc năng lượng
khí do vậy nơi ở của nhân vật này khiến ta liên tưởng đến vị trí các
luân xa hoặc các đan điền:
•Vị trí thứ nhất: Tôn Ngộ Không làm vua tại động Thuỷ Liêm núi Hoa Quả:
Minh hoạ cho việc hoả xà kundalini đang nằm tại luân xa 1
Muladhara. Tượng trưng cho tâm thức vô minh, luôn nô lệ cho bản năng.
Cư dân của Hoa Quả sơn chỉ toàn là khỉ (loài vật). Tượng trưng cho
việc, khi năng lượng còn tập trung ở trung tâm dục. Mọi biểu hiện sẽ là
bản năng của loài vật. Con người khi ấy luôn nô lệ cho dục tính, luôn
chạy theo việc thoả mãn cảm giác và đấu tranh nhau để sở hữu thật nhiều
phương tiện thoả mãn cảm giác. Xem đó là lý tưởng của cuộc đời. Khỉ già
chết minh hoạ cho việc nhân sinh quan cũ sụp đổ, chấm dứt sự hướng
ngoại chạy theo nhu cầu thoả mãn những đòi hỏi thuộc bản năng động vật.
Con người khởi sự hướng nội để tự thăng hoa phát triển về hướng chân
thiện mỹ. Ngô Thừa Ân minh hoạ cho việc này bằng hình tượng Tôn Ngộ
Không quyết định rời Hoa Quả sơn để tầm sư học đạo.
•Vị trí thứ hai: Học đạo với Tổ Sư Bồ Đề tại động Tà Nguyệt Tam Tinh thuộc núi Linh Đài Phương Thốn:
- Lúc còn ở động Thuỷ Liêm chỉ có thế giới loài vật vì năng lượng
còn nằm ở trung tâm dục. Khi người tu cắt đứt sự hướng ngoại, khởi sự
quán sát nội tâm mình năng lượng sẽ bắt đầu đi lên nên Tôn Ngộ Không
bước vào thế giới loài người. Khi ấy do phóng thể người tu thường vọng
ngoại, nay theo thầy này, mai học pháp môn nọ vì tham pháp muốn cái gì
cũng biết cũng hơn người. Không chuyên tâm thực hành chánh pháp của Như
Lai. Nên cuối cùng chỉ vớ được một mớ rác rưởi làm trò cười cho thiên
hạ. Giống như trong tác phẩm Tây Du ký minh hoạ lúc Tôn Ngộ Không bắt
chước người đời ăn mì, mặc áo, đội mũ, đi giày, ăn ớt . .v. v. . .
- Cho đến ngày Tôn Ngộ Không gặp được người tiều phu chỉ đường đến
thọ giáo với Tổ Sư Bồ Đề. Người tiều phu tượng trưng cho vị thiện tri
thức hướng dẫn ta đắc khí, phương pháp thăng hoa chuyển hoá khí, phương
pháp trụ vào giác tánh để khí tự hành. v .v. .Nghĩa là hướng dẫn ta qui
y với vị thầy tại tâm của mình. Thật là tài tình, bằng bút pháp kỳ ảo,
Ngô Thừa Ân đã dùng hình ảnh người tiều phu để minh hoạ cho minh sư tại
thế của người học đạo!
- Bồ Đề là phiên âm của từ Phạn ngữ Bodhi nghĩa là giác tánh. Học đạo
với Tổ sư Bồ Đề ý nói trụ vào giác tánh để tu tập. Tà nguyệt tam tinh
nghĩa là “Một vầng trăng khuyết 3 sao giữa trời”, đây là chiết tự của
chữ tâm, ý nói ngụ tại tâm, Linh Đài Phương Thốn là hạ đan điền trong
kỹ thuật luyện đan của người Trung Quốc. Vậy lần cư ngụ thứ hai này của
Tôn Ngộ Không tượng trưng cho việc khai mở luân xa 2 (swadhisthana) hay
tinh khí thần hợp nhất ở hạ đan điền. Để nội hoả thăng hoa, người hành
công cần phải trụ vào giác tánh làm chứng nhân cho chính mình. Phải tu
tâm nghĩa là “dụng tâm quán tâm” tiêu dung vọng niệm để tiến tới thực
chứng Bát Nhã (praijna). Đây là yếu chỉ của động công, nếu trụ vào ý
thức thì lạc vào tâm trí nhị nguyên nên trạo cử, nếu trụ vào vô thức
thì hôn trầm vô minh. Con đường hành công là trung đạo, nghĩa là ở giữa
nên phi logic. Định thì đắc khí, tịnh thì khí tự thăng hoa.
•Vị trí thứ 3: Tôn Ngộ Không xuống thuỷ cung lấy áo giáp và thiết bảng:
Đối với con người, rốn là nơi cuốn nhau đi vào là đầu mối của sự
sống. Nếu con người được xem là “tiểu vũ trụ” thì rốn là nơi “đại vũ
trụ” mẹ, giao thoa với “tiểu vũ trụ” con. Trong Tây Du Ký, Ngô Thừa Ân
đã hình tượng hoá cây thiết bảng của Tôn Ngộ Không nguyên là cây cột
chống trời, nghĩa là nối liền trời đất. Vậy phải chăng nó như là “cuốn
nhau” của người mẹ vũ trụ. Nơi mà năng lượng khí qua đó nuôi dưỡng mạng
mạch của người luyện công. Hành giả khi ấy như là thai nhi nằm trong
bào thai vũ trụ vậy! . . Cây thiết bảng sau này thành vũ khí lợi hại
của Tôn Ngộ Không khiến ngài có thể đại phá ma quân, hành công đức cho
đến ngày giác ngộ. Tương tự như năng lượng khí của người hành công do
giao lưu hợp nhất với vũ trụ mà có, và đó chính là phương tiện cần
thiết để người tu tập thực chúng giác ngộ vậy! . . . Áo giáp là phương
tiện bảo vệ cơ thể. Đối với người luyện khí công đó chính là vệ khí
hiển thị toàn bộ bề mặt da khi người hành công khai mở được luân xa 3
hay khí công đã vượt qua đan điền tinh tiến đến đan điền khí giữa ngực.
Vậy lần xuống Thuỷ Cung để lấy áo giáp và thiết bảng của Tôn Ngộ Không
phải chăng Ngô Thừa Ân đã tiểu thuyết hoá quá trình khai mở luân xa 3
(Manipura) làm cho vệ khí hiển thị cũng như hành giả có thể sử dụng khí
tuỳ ý như là phương tiện thiện xảo để tu tập và hoạt dụng độ sanh.
•Vị trí thứ 4: Tôn Ngộ Không xuống U Minh Giới đánh thắng ma quỉ và Diêm Vương, xoá sổ sinh tử:
Ngô Thừa Ân đã nhân cách hoá trạng thái “Vô thức” của tâm trí thành
Diêm Vương, chúa tể của cái chết. Bằng ngòi bút phi thường của mình tác
giả đã tiểu thuyết hoá quá trình đắc khí, dụng khí mà không nô lệ vô
thức của người hành công với hình tượng Tôn Ngộ Không chiến thắng Diêm
Vương.
Xoá sổ sinh tử, nghĩa là không bao giờ chết. Tôn Ngộ Không xoá sổ sinh
tử tượng trưng cho việc điều khí trong tỉnh giác không hôn trầm mê muội
hoặc bản năng. Nó tượng trưng cho việc người hành công có cái biết chân
chính: ta không phải cơ thể này, cũng không phải tâm trí này. Mà là
Tánh với thể dụng của nó là khí. Bởi Tánh không sinh ra, không già,
không chết, không thêm gì được vào, không bớt gì được ra, rỗng không mà
ẩn tàng mọi sắc tướng nên gọi là xoá sổ sinh tử. Hành giả luyện công
đến đây sẽ không bao giờ đứt khí.
Đối với người luyện khí công hoặc hoả xà thì thở ra như chết, hít
vào như sống. Hơi thở theo công phu tu tập ngày một chậm dần, nhẹ dần
đi, tương ứng với độ tịnh hoá của thân tâm. Khởi đầu là điều hoà, sau
đó chậm dần nhẹ dần để thành qui tức nghĩa là thở như rùa, tiếp đến là
vong tức nghĩa là thở mà như không thở mà hơi thở thông qua tác động
của khí tự xuất hiện phù hợp với hoạt động thích ứng tình huống. U Minh
Giới là cõi chết. Kỳ diệu thay! . . nó đã được Ngô Thừa Ân dùng để minh
hoạ một cách sinh động trạng thái vong tức của người hành công.
Thế thì phải chăng Tôn Ngộ Không xuống U Minh Giới chiến thắng
Diêm Vương xoá sổ sinh tử. Minh hoạ cho quá trình nội hoả thăng hoa đến
ngực khai mở luân xa 4 ( Anahata) tại đại huyệt đảng trung. Khi ấy
người hành công luôn thường trụ khí do luôn nhận biết tỉnh giác không
nô lệ cho vô thức bản năng. Hơi thở trở thành vong tức.
•Vị trí thứ 5: Tôn Ngộ Không lên Thiên
Đình, ăn đào tiên, uống linh đan, đập vỡ lò luyện đan của Thái Thượng
Lão Quân, đại náo thiên đình.
Theo niềm tin Á đông, thiên đình là cơ quan cai quản mọi sự vận hành
của vũ trụ và thế gian. Nó tượng trưng cho dịch lý nghĩa qui luật biến
dịch khách quan của trời đất, tượng trưng cho thế giới biến dịch sinh
diệt của hiện tượng.Tôn Ngộ không đại náo thiên đình minh hoạ cho người
hành công rời khỏi thế giới hiện tượng để thể nhập bản thể sự vật. Đào
tiên và linh đan là những báu vật thuộc Tiên đạo. Nó tượng trưng và
minh hoạ cho những thành quả hữu tướng thuộc về khí lực và thể lực của
người luyện công. Ăn đào tiên, uống linh đan và đập vỡ lò luyện đan của
Thái Thượng Lão Quân minh hoạ cho quá trình người luyện công sau khi
thực chứng những công năng và thọ nhận được những kết quả diệu kỳ của
việc luyện khí, không tự mãn ngừng ở đây, người hành công phải thăng
hoa lên giai đoạn “luyện Khí hoá Thần” Với đan điền khí giữa ngực và
đan điền thần tại trán thì giai đoạn “luyện khí hoá thần” phải nằm ở
giữa, nghĩa là tại đại huyệt Thiên Đột ở cổ họng thuộc luân xa 5
(víshusdda).
Như vậy hình tượng Tôn Ngộ Không lên thiên đình, ăn đào tiên, uống
linh đan, đập vỡ lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân phải chăng Ngô
Thừa Ân đã dùng để minh hoạ cho quá trình thăng hoa của kundalini trong
kênh sushuma tiến đến các đốt sống cổ khai mở luân xa 5 tại đốt C7.
Người hành công mở đầu cho giai đoạn “luyện khí hoá thần” gây các
chuyển hoá quan trọng về tâm thức để thực chứng bát nhã là trạng thái
“thần hoàn hư” bất tư nghì, sau khi đã thực chứng những công năng và
kết quả diệu kỳ của giai đoạn luyện “tinh hoá khí”.
•Vị trí thứ 6: Tôn Ngộ Không cùng Sa Tăng Bát Giới chiến thắng ma quỉ. Bảo hộ thầy là đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh:
-Tam Tạng người do cha mẹ sinh ra bằng huyết nhục, là người của thế
gian. Khác với 4 thành viên kia : Tôn Ngộ Không, Sa Tăng, Bát Giới,
Ngựa trắng, đều người của thế giới tâm linh. Tuy Tam Tạng yếu đuối,
chẳng có thần thông gì, lại cũng chẳng có trí tuệ hơn 4 thành viên kia
nhưng lại là thầy và là người chủ trì cuộc Tây Du. Cái mà Tam Tạng hơn
4 thành viên kia hoạ chăng chỉ có: đức tin, giới luật, tính thiện,
quyết tâm và sự gia trì bảo hộ của chư Phật chư Bồ Tát. Phải chăng theo
Ngô Thừa Ân đó là những yếu tố cần thiết để sử dụng luồng năng lượng,
thực chứng giác ngộ. Dù suốt quá trình tu tập cái tham sân si của Bát
Giới vẫn còn đấy, cái chấp thủ của Sa Tăng vẫn còn đấy, và vẫn còn cần
đến những phương tiện vật chất nhất định. Thế nhưng nếu nội hoả được
chủ trì bởi một người bình thường không hoang tưởng, người đủ các yếu
tố trên nhất định hành giả sẽ thực chứng giác ngộ. Bởi qua quá trình
trui rèn, nội hoả chẳng những tự hoàn thiện chính mình, liên tục thăng
hoa lên những dạng vi tế hơn thanh tịnh hơn mà còn là động năng giúp
tham sân si chuyển hoá thành giới định huệ, giúp chấp thủ thành xả bỏ
vô trụ tướng, giúp cái thiện nhị nguyên chuyển hoá thành trạng thái bát
nhã của vô ngã.
Con đường thỉnh kinh là con đường luyện tâm với ma quỉ là các dạng
vọng niệm làm rối loạn tâm và 5 thầy trò Đường tăng tượng trưng cho vốn
liếng về thân tâm của người đã đắc khí.
Nếu Tam Tạng nghe lời Tôn Ngộ Không thì chiến thắng ma quỉ. Nếu
Tam Tạng nghe lời Bát Giới thì thường bị ma quỉ bắt. Tượng trưng cho
hành giả nếu bị tham sân si lôi kéo thì thường thất bại trong đường tu
tập dù đã đắc khí. Trái lại người hành công phải sử dụng năng lượng làm
phương tiện thiện xảo để tu tập, phải luôn nương theo tác động của khí
để hiển thị. Tuy nhiên người hành công phải luôn nghiêm trì giới luật
thì mới làm chủ được luồng năng lượng này. Giống như lúc ban đầu Tôn
Ngộ Không quen phóng túng Tam Tạng không thể điều khiển được phải niệm
chú cẩn cô vậy!
Đến giai đoạn này Tôn Ngộ Không dùng tài lực của mình thường không
chiến thắng được ma quỉ. Trái lại ngài phải biết chủ của ma quỉ ấy là
ai, thỉnh vị ấy giá lâm để trừ tà. Phải chăng Ngô Thừa Ân ngầm ám chỉ
việc tiêu dung vọng niệm phải dùng trí tuệ để biết nguyên nhân các niệm
ấy từ đâu mà ra. Nhận biết tỉnh giác nguyên nhân ấy nghĩa là dùng pháp
đối trị thì vọng niệm tự tiêu dung.
Do ma quỉ thường là người nhà của chư Thánh mẫu và Bồ Tát. Nên giai
đoạn này Tôn Ngộ không thường xuyên lên xuống giữa thế giới Bồ Tát và
thế giới chúng sanh. Nếu nội hoả thăng hoa thì điểm cuối cùng là đỉnh
cao nhất của cơ thể, nó phải là đỉnh đầu tại đại huyệt Bách Hội hay
luân xa 7, nơi tượng trưng cho thế giới tâm linh cao tột. Còn từ tuỷ
sống trở xuống (luân xa 5 xuống luân xa 1) thì tượng trưng cho bản
năng. Bởi vậy giai đoạn trung gian giữa tâm linh và thế gian là tại
trán, tại đan điền thần ở huyệt ấn đường, đó cũng là vị trí luân xa 6
(Ajna).
•Vậy hình tượng Tôn Ngộ Không cùng Sa Tăng Bát Giới chiến thắng ma quỉ.
Bảo hộ thầy là đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh nhằm minh hoạ cho
giai đoạn điều tâm “luyện khí hoá thần” của tịnh công. Nội hoả tiến lên
đại não khai mở luân xa 6 (Ajna) cũng có nghĩa tinh khí thần hợp nhất ở
đan điền thần tại đại huyệt ấn đường. Khí hiển thị qua tâm thức “vô
niệm” nên trở thành yên lặng. Nội hoả làm trí huệ phát sinh.
•Vị trí thứ 7: Tôn Ngộ Không cùng cả
đoàn thỉnh kinh gặp Phật Tổ Như Lai, thỉnh được kinh vô tự, rồi sau đó
lại thỉnh được kinh có chữ trở về. Tôn Ngộ Không cùng Tam Tạng đều
thành Phật, Sa Tăng, Bát Giới, Ngựa Trắng đều thành Bồ Tát và là thị
giả của Phật.
- Hình tượng năm thầy trò Đường tăng thấy xác của mình trôi trên sông minh hoạ cho trạng thái vô ngã (anatta) của người tu tập.
- Tôn Ngộ Không gặp Phật Tổ Như Lai tượng trưng cho việc nội hoả
kundalini tiến đến đỉnh đầu khai mở luân xa 7 tại đại huyệt bách hội.
Tôn Ngộ Không thành Phật tượng trưng cho việc nội khí qua luân xa 7 hoà
nhập với biển năng lượng vũ trụ của trời đất.
- Tam Tạng thành Phật tượng trưng cho tâm chánh định thuộc tâm trí
nhị nguyên đã thăng hoa chuyển hoá thành trạng thái rỗng không như thị
của bát nhã. Bởi vậy khi đi thì Tam Tạng đi trên mặt đất như người
thường, khi về thì bay như chư Bồ Tát.
- Bát giới, Sa Tăng, Ngựa Trắng đều đắc quả minh hoạ các yếu tố
khác của người hành công đều được thăng hoa chuyển hoá đến cùng cực.
- Năm thầy trò Đường tăng gặp Phật Tổ, thỉnh được kinh vô tự tượng
trưng cho việc người hành công thể nhập bản thể, thực chứng “chân
không”, thấy Phật pháp phi văn tự mà ẩn tàng trong thế giới hiện tượng.
- Sau đó năm thầy trò Đường tăng lại thỉnh được kinh có chữ mang
về cho người đời. Tượng trưng cho việc người tu tập thực chứng “diệu
hữu”, tuy ở thế giới thanh tịnh mà luôn tuỳ duyên ứng dụng để độ sanh.
Nói xong mà chả thấy trà đâu! . .nhìn quanh cũng chẳng thấy còn
mống nào ngồi nghe!. . .hoá ra mình đã thành Độc Cô Cầu Bậy rồi sao? .
.hì hì! . .không có trà thì đành uống bia vậy! . . .ai có tiền thì rũ
tớ đi với! . . .