- Dạ cho tui hỏi thăm. Có bác Lau Thưa ở đây không?
- Tới cây gạo chỗ bến đò kia, có đám nhậu, cứ thấy cha nào ốm nhách ốm nhơ như ma đói là thằng chả.

-          Cảm ơn mấy bác.

-          Thôi! . . ơn nghĩa gì, miễn đừng bảo tụi tui chỉ là được rồi.

-          Ủa tại sao vậy?

-          Thằng chả chúa ghét tiếp khách! Biết tụi tui chỉ, lão chửi cho đấy và hìhì! . . . khi có đồ nhậu lão chẳng kêu.

-          Thế lão ta thích gì nhất.

-          Uống rượu làm thơ!

-          Lấy gì để sống?

-          Đánh cá dọc bến sông này và làm thơ mướn.

-          Mấy bác nói sao?

-          Ông thấy lạ chứ gì. Thế này nhé!. . . Lão ốm ấy, chẳng vợ con gia đình gì ráo. Lão sống luôn trên chiếc thuyền câu cà tàng của mình. Thuyền lão có gắn cái vó thật to ở đầu, gọi là gọng vó. Lão thả cám ran để dụ ba con cá lòng tong, cá bống đến vó rồi cất rớ lên. Cá bắt được lão rộng trong khoang thuyền. Hàng ngày có người từ chợ cá đến, lão đổi cá lấy gạo, mắm và rượu.

-          Thế nhỡ ngày nào không có cá hoặc cá ít thì thế nào?

-          Thì uống nước lã ngâm thơ cho đỡ đói! . . .hì hì! . . .

-          Tội nghiệp! . . .

-          Ông nói giống y như lão ốm rồi. Lão cũng bảo mình bị nghiệp! . . cái nghiệp thơ văn và lãng tử nó hành! . . .

-          Nhưng mấy bác bảo lão còn làm thơ mướn nghe lạ quá?

-          Ấy! . . . nhờ cái khoản đấy đấy! . . . từ ngày có người đến mướn làm thơ, lão mới đỡ khổ! . . mới có đủ cơm ăn và rượu để uống! . .

-          Nhưng ban đầu ai biết mà đến mướn? Với lại lão ta học hành thế nào mà thi phú, lại còn làm thơ mướn nữa thì thơ làm sao hay được?

-          Lão bảo nhờ Hà Bá dưới sông độ, nên mỗi lần nhậu, đều đổ một ly rượu xuống sông. Với lại lão nói con ma men nó làm thơ chứ đâu phải lão! . . .chẳng hay chẳng dở, miễn đừng để cái lý trí đúng sai thiệt hơn chen vào! . . .Muốn vậy than ôi!  . . . chỉ khi xỉn thì mới thật với chính mình! . . .

-          Những ai là người thường đến mướn lão ta làm thơ?

-          Nhiều người thừa tiền lắm của, có cuộc sống sung túc, nhưng lại muốn thêm cái danh hão, muốn làm một tập thơ để biếu tặng mọi người, thì giá rẻ, mỗi bài một chai rượu đế thôi! . . . Không bằng thơ bí hiểm trông giống như thiền ngữ thì giá cao hơn nhiều! . . .

-          Ông nói sao?

-          Có gì ngạc nhiên! . . .đạo thì phải cao hơn đời là hợp lý rồi! . . .Một bài thơ bí hiểm giả thiền ngữ thì hai chai! . . .

-          Thơ văn thì vô giá, nhưng quả thật hơi đắt! . . .

-          Ấy , ông không cần thì cho là đắt chứ người đến mướn làm thơ thì không cho là đắt. Họ bảo miễn sao thật bí hiểm để không ai hiểu được. Lão ốm chỉ giải thích riêng cho họ để họ sau này có cái mà giảng cho con nhang đệ tử! . . . Ôi dào! . . nhằm nhò gì ba cái vật chất, cái danh chứng thiền mới là quan trọng! . . .

-          Nhưng sao họ không  nhờ mấy tay ở thành phố mà lại mò đến đây?

-          Có chứ! . . nhưng mấy tay viết mướn trên ấy làm biếng hay sao ấy, nên chỉ biết cóp nhặt chỗ này một chút chỗ kia một chút xào nấu để cho ra đời một cuốn sách thiền dày cộm, giá lại cao mà người đọc thì quá quen với chiêu này rồi nên nên tránh như tránh tà! . . .Ấy! cũng nhờ vậy mà cái ngẫu hứng không rập khuôn, mới có ngày dùng được!

-          Thôi! . . xin chào bác! . . tôi đến chổ lão ốm đây.

-          Này! . .tôi hỏi khí không phải. Ông tìm lão ta có việc gì vậy?

-          Để nhờ lão giải thích một bài thơ của lão

-          Bài thơ nào?

-          Bài "Thu tàn".

-          Sao ông biết chỗ này mà tìm đến?

-          À! . . một người bạn tôi vốn là thân chủ của lảo ốm, đã mách cho tôi

-          Nhưng lão chỉ làm thơ mướn chứ không giải thích mướn đâu.

-          Vậy phải làm thế nào?

-          Chắc giá phải gấp đôi! . .

-          Hìhì! . . .được thôi! . . nhưng sao ông biết rõ thế?

-          Ở gần nhau nên biết tính nhau.

 . . . .

Bến sông đìu hiu, một chiếc thuyền chài xơ xác cắm sào bên cây gạo nghiêng mình ra sông. Chả thấy có đám nhậu nào cả! . . .Mặc! . .Ba Gàn cứ bước chân lên tấm ván khập khiểng, định lên thuyền thì nghe trong thuyền có tiếng ho và ngâm thơ khàn khàn:

-          Đói lòng đành phải bán thơ.

     Tránh xa của nợ, nợ vờ ngẩn ngơ! . . .

     Hề hề! . . .Vào đi! . . Vào đi! . .  Chúc mừng cao nhân giáng lâm tệ xá!     . . hà hà! . . . .

-          Ủa! . . thì ra là ông. Thế mà ông cứ giả vờ.

-          Ta đó, ta đây cũng chính ta

Chính ta mà không phải thực ta

Ta Bà du hí nên vô tướng.

Thương lượng đầu tiên rượu để ra! . . .hà hà! . . .

-          Có đây! . . có đây! . . .Tôi không có rượu chỉ có trà, Không biết lão huynh tính thế nào?

-          Một trà bằng ba rượu! . . .

-          Thế thì đệ xin phụng mạng! . . .Ba Gàn lấy trong tay nải một gói trà sen và để lên bàn.

-          Đây! . .Lão già vừa đưa cho Ba Gàn tờ giấy, tay kia lão đẩy hắn ra khỏi thuyền! . . Về đi! . . .

Thấy thái độ cương quyết của lão già, Ba Gàn đành quay gót. Nhìn theo Ba Gàn, lão già vừa gõ nhịp vào khoang thuyền vừa hát:

Cơm chợ nhờ thơ, lỡ cả đời.

Mới biết rượu say, . . . trà cũng say!

Say! . . Say! . .

Lăn quay! . .lăn quay! . .

Về ngay! . .về ngay! . . .

Ta say, trà say, thơ cũng say! . . .

Hềhề! . .

Ba Gàn ngồi dưới bóng mát cây gạo. Hắn nghe dưới thuyền lão già đang lè nhè:

-          Hà hà! . .Hà Bá đâu sao huynh chưa đến để cùng ta làm thơ giải sầu! . . .bộ huynh chê trà của ta hả?! . . .hà hà! . . .

 

     Rượu say thì trà cũng say!

     Ta say! Thơ say! Đời cũng say! . .

      Đâu hay trăng rụng đã bay về trời! . .

hà hà! . . .

 

Như cái hoang tàng đang theo con sông Lại tràn ngập tâm hồn. Ba Gàn run run mở tờ giấy của lão già:

Lão chỉ thấy một vòng tròn vẽ bằng than củi.

Gió thu rì rào trong luỹ tre, mấy chiếc lá khô lượn lờ rồi rơi xuống sông. Một chiếc lá như nuối tiếc còn vương trên mui thuyền lão ốm. Ba Gàn khe khẽ đọc mấy câu trong bài thơ "Thu tàn':

 

             Lá vàng rơi trên giấy

             Bút gầy ngủ chỏng chơ

             Thơ còn chơi chưa đến

             Ta ngồi bên . . .đời ta! . . .

 

CỎ MAY/2/11/2004