Khai mạc lớp Khí Công Dưỡng Sinh từ thiện tại thành phố Ban Mê Thuột/7/12/2008
Nam Mô A Di Đà Phật. Này Cỏ May. Ông và chư huynh đang làm Phật sự thì đừng để những người nhất xiển đề và tăng thượng mạn làm rối loạn tâm. Thành bại, hơn thua, có không, vinh nhục, thị phi các ông hãy dùng tứ niệm xứ của Như lai để rời xa nó: Ly sanh Hỷ Lạc, Định sanh Hỷ Lạc, Ly Hỷ sanh Diệu Lạc và Xả niệm thanh tịnh. Hãy quán: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã để luôn giữ được tịnh, an lạc, trí huệ và tràn đầy nhận biết.

Ta nghĩ  đây là cơ hội để ông và các bạn đồng môn của mình, làm tỏ rạng chánh giáo của Như Lai giữa thói đời tham dục.

Để hộ ông và các bạn đồng môn của mình trong những ngày làm Phật sự sắp tới luôn được Như Lai sở hộ niệm, tu tập và làm Phật sự có kết quả, thể nhập được quốc độ Thường Tịch Quang của chư Phật ngày tại trần gian mịt mù gió cát này. Ta y theo câu hỏi của ông về cách thực hành Di Đà Tam Tôn bằng Đại Thủ Ấn để nói kinh nghiệm riêng của mình về pháp tối thượng này. Hy vọng ông và mọi người sẽ ứng dụng được.

Này Cỏ May.

Ông đã thật tình hỏi về Di Đà Tam Tôn. Ta cũng vì ông mà nói kinh nghiệm riêng của mình về việc ấy:

1.    An vị đức Phật A Di Đà trên đỉnh đầu:

Trang nghiêm cơ thể thanh tịnh Tâm. Đảnh lễ Như Lai, chư Bồ Tát, chư Tổ và Hộ Pháp.

Kiết ấn phụng thỉnh đức đạo sư A Di Đà Phật.

Quán tưởng đức A Di Đà Phật đang ngồi và an vị tại đỉnh đầu của mình.

Nương điển quang chuyển khế ấn đặt trên đỉnh đầu ở luân xa 7.

Dụng hóa thân nhập Thiền, tam mật tương ưng, phụng thỉnh đức Đạo Sư ứng điển nhập thân để dạy đạo.

Đại Thủ Ấn sẽ tách ra thành hai ấn âm dương cùng vẽ linh phù (mantra) vào hệ thống luân xa, các giác quan, toàn thân và gan bàn chân, gan bàn tay.

Chú ý: Ngòi viết là đầu 2 ngón tay cái và út chập lại trong khế ấn (Mudra).

Niệm hồng danh A Di Đà: Nam Mô A Di Đà Phật. Trụ chắc và nhất niệm này.

Nương điển quang và Phật lực để chuyển động khế ấn.

Chú Ý: Đường chuyển động là đường đi của các linh phù, do Phật lực làm tự xuất hiện. Nếu tự ý chen các động tác cơ bắp vào sẽ mất hiệu quả.

Nét mặt tịnh an lạc, nụ cười yên lặng luôn nở trên môi không bao giờ tắt. Đại Thủ Ấn chuyển động không trọng lượng và thật chậm.

Cơ thể là cái người đang nhận điển quang và hành công. Còn mình không phải Thân Tâm này. Mình là “Cái người đang nhận biết tỉnh giác” luôn theo dõi chứng kiến chính mình trong suốt quá trình hành công. Giữ cho nó luôn tịnh, tiến tới cực tịnh, luôn an lạc và tràn đầy nhận biết.

Hơi thở nhỏ nhẹ chậm dài sâu, thông suốt không có tiếng động.

Hành công ở tư thế ngối kiết già hay bán già, cho đến khí hóa thân tự xuất hiện động tác đảnh lễ Phật thì chuyển sang hành công ở tư thế đứng.

Hành công ở tư thế đứng cho đến khi hóa thân tự xuất hiện động tác hành đại lễ Như Lai với 5 vóc đụng sát đất.

2.    An vị Bồ Tát Quán Âm trên đầu vai phải của mình:

Kiết ấn Quan Âm đưa lên trên vai phải.

Quán Tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm đang ngồi trên tòa sen và an vị trên đầu vai phải của mình.

Niệm liên tục danh hiệu của Bồ Tát:Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát Ma Ha Tát. Trụ tâm vào danh hiệu này:

Khế ấn Quan Âm sẽ tự vẽ linh phù (mantra) vào khoảng không trên đầu vai phải.

-      Tiếp tục hành công cho đến khi hóa thân tự đảnh lễ Bồ tát với khế ấn trên tay.

 

3.    An vị Bồ tát Đại Thế Chí trên đầu vai trái của mình:

Kiết ấn Đại Thế Chí đưa lên trên vai trái.

Quán Tưởng Bồ Tát Đại Thế Chí đang ngồi trên tòa sen và an vị trên đầu vai trái của mình.

Niệm liên tục danh hiệu của Bồ Tát:Nam Mô Đại Thế Chí Bồ tát Ma Ha Tát. Trụ tâm vào danh hiệu này:

-      Khế ấn Đại Thế Chí sẽ tự vẽ linh phù (mantra) vào khoảng không trên đầu vai trái.

 

-      Tiếp tục hành công cho đến khi hóa thân của mình tự đảnh lễ Bồ tát với khế ấn trên tay.

 

4.    Thực hành Di Đà Tam Tôn bằng Đại Thủ Ấn (Mahamudra):

Chấp tay trước ngực. Nhận điển quang của Như Lai hộ niệm.

Thân Tâm tịnh, an lạc. Nụ cười yên lặng luôn nở trên môi:

Đầu mỉm cười trong yên lặng.

Mặt mỉm cười trong yên lặng.

Ngực mỉm cười trong yên lặng.

Bụng mỉm cười trong yên lặng.

Tay chân mỉm cười trong yên lặng.

Tai mắt mũi miệng thân khẩu ý luôn mỉm cười trong yên lặng.

Tâm yên lặng cùng cực và như đang mỉm cười.

Niệm chân ngôn (dalani): Nam Mô Di Đà Tam Tôn. . . . Nam Mô Di Đà Tam Tôn. . . . Nam Mô Di Đà Tam Tôn. . . . Nam Mô Di Đà Tam Tôn. . . .

Toàn thân như nhẹ dần đi không trọng lượng. Động tác chậm thật chậm, nhẹ thật nhẹ, như không trọng lượng.

Nếu động tác ra gân, tâm lý kích động hoặc mất an lạc và mất tỉnh giác thì sẽ không hiệu lực.

Dụng điển quang không dụng lực cơ bắp.

Khi thể nhập quốc độ Thường Tịch Quang của Như Lai thì điển quang chạy khắp người, hơi thở thông suốt, cơ thể nhẹ hẫng đi như không còn trọng lượng. Thấy như có muôn ngàn mũi kim châm nhẹ vào da thịt vì vệ khí hiển thị toàn thể bề mặt da. Thấy như có làn gió mát thổi vào người. Thấy hào quang nhiều màu sắc. Ngửi được hương thơm huyền diệu. Thần trí cực kỳ linh mẫn. Cơ thể cực kỳ khoan khoái. Tâm luôn tịnh, an lạc và tràn đầy nhận biết không mê muội hay lạc vào vô thức bản năng.

Trụ chắc vào dalani: Nam Mô Di Đà Tam Tôn

Đại Thủ Ấn(Mahamudra) sẽ hiển thị ở hai bàn tay đang chấp. Sau đó Phật lực sẽ điều khiển Mudra(khế ấn) tự chuyển động và vẽ linh phù (mantra) vào người, xuống đất, chung quanh và lên trời.

Hành công ở tư thế ngồi kiết già hay bán già. Sau đó Phật lực sẽ điều khiển đứng dậy để thực hành Di Đà Tam Tôn ở tư thế đứng.

Bài tập tự kết thúc khi hóa thân của mình tự hiển thị khế ấn A Di Đà để đảnh lễ đức Phật A Di Đà. Tự hiển thị khế ấn Quan Âm để hóa thân tự đảnh lễ Bồ Tát Quan Âm. Tự hiển thị khế ấn Đại Thế Chí để đảnh lễ Bồ Tát Đại Thế Chí.

Sau lúc đó, hành giả niệm HUM để cắt điển ngừng tập.

Nếu tập đúng, trường trai, ly dục, giữ giới, Tâm luôn tịnh an lạc không để phan duyên theo trần, thì sau một thời gian tu tập kết quả cụ thể sẽ hiển thị:

Cơ thể khỏe mạnh, tâm luôn an lạc. Phật lực và huệ lực hiển thị. Nếu tu lâu ngày sẽ hiển thị Vô Tác Diệu Lực.

Chú Ý: Khế ấn Di Đà, Quán Âm và Đại Thế Chí thì phải gặp Thầy hay chư huynh để được kiểm tra về đạo lực, đạo hạnh rồi mới được truyền trực tiếp. Không nên nương điển quang tự hiển thị vì khi ấy khế ấn có thể chưa đủ độ vi tế, tập chẳng những không hiệu quả mà còn có thể sinh tai nạn.

Mô Phật.

Đây là kinh nghiệm riêng của già. Chưa chắc đã phù hợp với mọi người. Các bạn và các trà sĩ chỉ nên dùng để tham khảo mà thôi. Còn muốn y pháp thực hành thì nhất thiết phải tuân thủ những qui định về giới hạnh đã ghi ở trên.

Tưởng Vậy/3/12/2008