Khi đời thường nở hoa. . .

1. Chỉ có thể thực hành Đại Bi Huyền công có kết quả khi đã thực hành thành thục các bài tập Thiền định sau: • Quán hơi thở • Quán động tác • Quán tâm thức

Quán hơi thở: Thở điều hòa, thở vô biết thở vô, thở ra biết thở ra. Biết mình đang nhận biết hơi thở.
Quán động tác: Nhận biết mọi sự chuyển động đều do ân điển thiêng liêng biểu thị, nhận biết mình đang buông xuôi để cùng trôi, nhận biết mọi biểu thị đều điều hòa trang nghiêm và thanh tịnh. Nhận biết mình đang  nhận biết động tác.
Quán tâm thức: Dụng tâm quán tâm, nhận biết mọi ý nghĩ, tình cảm như những đám mây trôi nổi trên vòm trời rỗng không của tâm thức. Nhận biết lúc không mây, và cả lúc có mây. Không để mây lôi đi mà cũng không trụ vào rỗng không. Luôn trụ vào nhận biết... Nhận biết mình đang quán tâm thức.
2.    Chỉ có thể thực hành Đại Bi Huyền công sau khi đã thành thục: Thiền Đại Thủ Ấn (Mahamudra).
3.  Chỉ có thể bắt đầu thực hành Đại Bi Huyền Công sau khi đã đảnh lễ và phụng thỉnh Như lai cùng ơn trên bằng Đại Thủ Ấn với ân điển thiêng liêng.
4.  Trong thực hành, Đại Bi Huyền Công chỉ có hiệu lực khi Tam mật tương ưng: “Thân mật” biểu thị qua Mudra (khế ấn), “khẩu mật” biểu thị qua việc trì Dalani hay miệng tự nói tiếng thiêng, “ý mật” biểu thị qua việc khế ấn tự vẽ mantra(linh phù). Nếu thiếu một trong 3 thì không có hiệu lực. Khi “mật” nào không biểu thị, thì phải ngưng việc thực hành Đại Bi Huyền Công, và phải hành thiền Định nhận biết tỉnh giác về “căn” ấy cho đến khi nào thật thành thục, nghĩa là ân điển biểu thị qua căn ấy được thì mới bắt đầu tập Đai Bi Huyền Công trở lại. Thí dụ: Nếu không thấy đại thủ ấn hiển thị, thì phải thực hành Quán động tác trở lại cho đến khi thành thục.
5. Nghi thức nhận ân điển thiêng liêng để thực hành Đại Bi Huyền công phải theo trình tự sau:   
·      Lư hương xạ nhiệt: Nghĩa là đan điền Tinh phải đắc khí.
·      Pháp giới mông huân: Điển quang kéo hai tay chấp lên đỉnh đầu và xuất hiện Đại Thủ Ấn. Nghĩa là người tu đã thể nhập Phật trường.
·      Chư Phật hải hội tất dao văn: Điển quang điều khiển đảnh lễ chung quanh, trên đầu.
·      Thành ý phương ân: Niệm danh hiệu Nam Mô Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. Và cơ thể sẽ được điển quang tác động tự xoay về phía linh tượng của Bồ Tát, về phía bát hương tam bảo, hay về phía anh linh của Ngài đang ngự... để đảnh lễ bằng đại thủ ấn.
·      Chư Phật hiện toàn thân: Đại Thủ Ấn trên đỉnh đầu tự chuyển động và vẽ linh phù khắp châu thân để Bồ Tát ứng điển nhập thân.
 

6.  Lúc mới bắt đầu, thực hành từng câu Dalani. Khi nào cơ thể tự đảnh lễ mới chuyển sang câu khác. Khi thành thục thì trì một lượt cả 84 câu và nương đại thủ ấn để tam mật tương ưng. Nếu tập với băng tụng chú Đại Bi bằng Hải triều Âm thì hiệu quả lớn hơn.

 

7. Khi bắt đầu tập, thì tập ở tư thế đứng. Chỉ hai tay chuyển động bằng điển quang với Đại Thủ Ấn và liên tục vẽ mantra vào cơ thể hoặc không trung. Khi độ định sâu dần thì cơ thể sẽ tự ngồi xuống trang nghiêm và đại thủ ấn với linh phù chỉ chuyển động ở hai tay còn toàn thân lặng ngắt không được chuyển động tự phát.
8.  Độ định và tỉnh sẽ ngày càng sâu hơn. Cuối cùng cơ thể sẽ tự ngừng chyển động và hai tay sẽ tự khép lại với ấn tam muội theo thế thiền định. Người tập nương theo đấy hành thiền tịnh và nhập đại định với trạng thái nhận biết tỉnh giác không mê muội.
9.  Phải tập với sự hướng dẫn trực tiếp của minh sư mình. Không được tự ý tập một mình khi chưa được phép.
10. Người mới tập, thực hành trực tiếp với minh sư mình. Còn chư huynh đã đi độ sanh, đã được phép của thầy, có thể tập qua linh ảnh với sự hướng dẫn của Guru tâm linh...

Trên đây là 10 điều ghi nhớ để chư huynh thực hành Đại Bi có hiệu lực... Chúc chư huynh thân tâm thường an lạc, tu học và làm Phật sự có kết quả.
 

 

 

Tưởng vậy/25/8/2007