Tam thân nhất thể

Site Root

Site Root
A description has not yet been added to this group.

Tâm lý khí công

Những thuật ngữ, khái niệm về tâm lý khí công.

Tam thân nhất thể

Tâm lý khí công

Rate This

 -           Thưa cụ, thế nào là tam thân nhất thể?

-           Đó là 3 trạng thái cùng biểu thị trong một xác thân. Thí dụ: Phật- Pháp- Tăng. Cha- Con- Thánh Thần. Brahma- Visnu- Siva. . . .v.v. . . . hay nói cách khác: Bản Thể -Thế giới Hiện Tượng - và một hiện tượng cá biệt (tại một thời điểm nào đấy trong dòng chảy biến dịch).

-           Đây có phải là qui luật phổ quát của sự vật?

-           Đúng vậy

-           Thế trong KCDS “tam thân nhất thể” biểu thị như thế nào?

-           Này Cỏ May, Ba thân Phật nói ở trên có lẽ đầu tiên được Vô Trước (sa.asaṅga) trình bày rõ nhất, xuất phát từ quan điểm của Đại Chúng Bộ (sa.mahāsāṅghika) và về sau được Đại thừa tiếp nhận.

Ba thân là ba trạng thái của kinh nghiệm giác ngộ.

Chứng được Pháp thân chính là tri kiến được tự tính sâu xa nhất của muôn vật, và tự tính này chính là Tánh Không, trống rỗng.

Báo thânHoá Thân (Ứng thân) là thân của sắc giới, là phương tiện tạm thời giúp hành giả chứng ngộ được Tánh Không.

Thân, khẩu, ý của một vị Đạo sư (sa. guru) đồng nghĩa với ba thân nói trên.

Ba thân, được biểu tượng bằng thần chú OṂ-AH-HUM.

Sức mạnh toàn năng của Pháp Thân được thể hiện ở đây bằng Tỳ Lô Giá Na Phật (Vairocana Bodhi). Giáo pháp Đại Thủ Ấn kết hợp với Thiền có khả năng giúp hành giả đạt được kinh nghiệm về tâm thức vô tận của Pháp Thân.

Báo Thân được xem là một dạng của “thân giáo hoá.” Các Báo thân xuất hiện dưới dạng Ngũ Trí Như Lai và được xem là phương tiện để tiếp cận với chân như. Báo Thân xuất hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau. Tịch tĩnh (sa.śānta) hay phẫn nộ (sa.krodha). Có khi được trình bày với các vị Thần Thể (bo.yidam) hay Hộ Pháp (sa.dharmapāla).

Ứng thân hay Hoá Thân là một dạng “thân giáo hoá” với nhân trạng, là các vị Bồ Tát tái sinh qua một thân thể. 

Ba thân nêu trên không phải là ba trạng thái độc lập mà là biểu hiện của một đơn vị duy nhất. Thỉnh thoảng được miêu tả bằng thân thứ tư là Tự Tánh Thân (sa.svābhāvikakāya). Trong một vài Tantra, thân thứ tư này còn được gọi là Đại Lạc Thân (sa.mahāsukhakāya).

Này Cỏ May, vì đặc tính của 3 thân là khác nhau, mà cả 3 thân trên đều cùng hiện diện trên Báo Thân (xác thân). Nên tuỳ theo tình huống, 3 thân sẽ thay nhau biểu thị qua lời nói và hành động. Do vậy lời nói và hành động của một vị thầy mật tông đã chứng đắc “Tam thân nhất thể”là phi logic, là có khi không hợp với quan điểm thông thường của đám đông. Đấy là vì chư vị thiêng liêng tuỳ căn, tuỳ thời, tuỳ tình huống, có khi biểu thị từ bi, có khi biểu thị phẩn nộ, có khi biểu thị giới hạnh trang nghiêm, có khi biểu thị qua nghệ thuật. . .v.v. . .để dùng phương tiện thiện xảo trị bệnh cứu người hoặc hoằng dương chánh giáo của Như Lai. Tất cả cái đấy đều là Tánh khởi Dụng, nên không thể dùng tâm trí nhị nguyên phán xét đúng-sai, phải-trái.

Tuy “nhất thiết pháp không”. Nhưng “Tất cả các pháp đều không lìa tự tánh”. Tuy chư huynh đã nhận được gia trì lực của Như Lai. Ngộ vị thầy vô vi qua trường năng lượng. Nhưng công phu kiến địa vẫn còn chưa tinh thuần. Cho nên phải vừa tu học vừa làm Phật sự. Áp dụng yếu chĩ của giải thoát môn vào cuộc sống thường nhật. Đấy là lúc Báo Thân trả nghiệp mà không gây nghiệp mới, vì thân khẩu ý do tam mật tương ưng. Cũng vì thế nên hoạt động của hành giả biến thành Tánh khởi Dụng của Hóa Thân nên vô ngã. Do vậy gọi là “Vô Tác”. Có hành động làm mà  chẳng có pháp nào được làm vì thiêng liêng tự biểu thị qua ta, nên gọi là “Pháp Không mà không lìa Tự Tánh”.

Này Cỏ May, vai trò của “Tam Thân Nhất Thể”đối với một vị Guru. Cũng giống như con người thật của người nghệ sĩ khác với các vai mà người nghệ sĩ ấy diễn trên sân khấu. Guru phải là người đã chứng đắc Tánh Không. Nhưng “Pháp Không mà không lìa tự tánh” nên 3 thân Phật là Pháp Thân, Hoá Thân và Báo Thân đồng biểu thị nơi ngài.

Tưởng vậy/9/11/2012

Comments
  • ... Mây che trên đầu...

                                        và nắng trên vai....

    ...Đôi chân ta đi.....

                                       sông còn ở lại....

    ...Con tim yêu thương.....

                                         vô tình....chợt gọi...

    .....Lại thấy trong ta....

                                        hiện bóng con người....

  • Đoạn trích này có lẽ bạn Nowhere bị nhầm,...."Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi,..."

    "Con tinh" chứ không phải "con tim" đâu bạn,....

  • Cám ơn bạn, tìm hiểu thấy thú vị quá.

    Mình thấy "con tim" hay  "con tinh" chả...khác gì...

  • Cảm ơn Quý Thầy đã điểm chỉ vấn đề sâu xa của đao pháp. Song còn một vấn đề quan trọng con vẫn chưa hiểu. Ngưỡng mong quý Thầy từ bi giảng rõ: "Yếu chỉ của giải thoát môn" là gì? để đệ tử cùng các chư huynh thấu triệt con đường giải thoát giác ngộ,

    Nam Mô A Di Đà Phật.

  • BCT xin gửi bài sưu tầm các huynh cùng nghiên cứu quangduc.com/.../45giaolynghiep-ttt.html

    Nếu có gì không đúng xin mọi người từ bi hoan hỷ.

    Nam Mô Hoan Hỷ tạng Bồ Tát ma ha tát.

    GIÁO LÝ NGHIỆP

    (KARMA)

    Thích Tâm Thiện

    A* Dẫn nhập

    Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" (Owners of their karma are the beings, heir of the karma. The karmar is their womb from which they are born, their karma is their friend, their refuge - 155). Như thế, sự hiện hữu của mỗi con người đồng thời là sự hiện hữu của nghiệp thiện và bất thiện từ (vô lượng kiếp) quá khứ. Mỗi con người cá thể là điểm trung tâm của nghiệp; ngoài mỗi cá thể ấy sẽ không có bất kỳ một cái nghiệp nào được bàn đến.

    B* Nội dung

    I) ĐỊNH NGHĨA:

    Nghiệp là gì?

    Theo từ nguyên, nghiệp, tiếng Sanskrit gọi là karma, Pàli gọi là kamma có nghĩa là hành động có tác ý (volitinan action). Nói cách khác, nghiệp luôn luôn được bắt nguồn từ những tạo tác của tâm (ý) thông qua những hoạt động của thân, miệng, và ý, gọi chung là tam nghiệp. Do đó, một hành động (tạo tác), nếu không phát sinh từ tâm thì không thể gọi là nghiệp, mà hành động chỉ được gọi là hành động hay hành động duy tác (kriyà). Và như vậy, định nghĩa của nghiệp là: hành động có tác ý, hay hành động được phát sinh từ tâm.

    II) NỘI DUNG CỦA NGHIỆP:

    Thông thường, nói đến nghiệp là nói đến vấn đề thiện, ác trong vòng sinh diệt và tương tục của đời sống con người. Thông qua việc tạo nghiệp (thiện hay ác) mà con người tự xây dựng cho mình một định nghiệp - một đời sống khổ đau hay hạnh phúc. Nhưng khổ đau hay hạnh phúc là những cảm nhận của riêng mỗi con người khác nhau. Vì thế, sẽ không có một khuôn mẫu ước lệ nào có thể quy ước một cách đầy đủ về nghiệp. Tuy nhiên, cơ sở của nghiệp là tâm (ý), do đó, khảo sát về nghiệp chính là khảo sát về cội nguồn của tâm. Đức Phật dạy:

    "Ý dẫn đầu các pháp

    Ý làm chủ tạo tác

    Nếu với ý nhiễm ô (ác)

    Nói năng hay hành động

    Khổ não bước theo sau

    Như xe theo bò kéo". (Dhp 1)

    " Ý dẫn đầu các pháp

    Ý làm chủ tạo tác

    Nếu với ý thanh tịnh (thiện)

    Nói năng hay hành động

    An lạc bườc theo sau

    Như bóng không rời hình". (Dhp 2)

    Qua bài kinh trên, chúng ta nhận rõ rằng chính mối tương quan nhân quả từ nơi tâm ý của con người đã hình thành nên cái nghiệp thiện hay ác mà con người phải thọ nhận. Vì thế, Đức Phật dạy về nghiệp là nhằm đánh thức con người thức tỉnh nơi tâm ý của chính mình (tự tịnh kỳ ý) để từ đó đi vào một đời sống an lạc giải thoát. Tất nhiên, cái mà gọi là nghiệp ở đây là những gì thuộc pháp hữu lậu (nghiệp hữu lậu), tức là những gì thuộc thiện - ác, khổ đau - hạnh phúc v.v... nó găn liền với đời sống đạo đức, luân lý của con người, với những cảm thọ vui buồn - khổ lạc, mà không phải là những gì thuộc vô lậu - giải thoát. Do đó, trong một số trường hợp, khi các kinh văn đề cập đến nghiệp và lậu, chúng ta cần hiểu rằng đó là một lối diễn đạt nhằm phân biệt giữa cái thiện, ác và cái đã thoát ly mọi ý niệm về thiện, ác. Chẳng hạn, tham - sân - si là nghiệp bất thiện, nghiệp ác; nhưng tự thân không tham - không sân - không si là cái nghiệp thiện, hay cái nghiệp thanh tịnh - giải thoát. Bởi lẽ, thanh tịnh - giải thoát tự bản thân nó đã thoát ly mọi khái niệm thiện - ác, hữu - vô. Do vậy, khi bàn đến nội dung của nghiệp , ở đây chúng ta chỉ thuần túy nói đến nghiệp thiện và nghiệp ác, tức là nghiệp hữu lậu mà không nói đến nghiệp vô lậu. Cố nhiên, định nghĩa "Nghiệp là hành động có tác ý, hay hành động được phát sinh từ tâm" chỉ được dùng cho tất cả nghiệp hữu lậu., tức là mọi vấn đề liên quan đến thiện và ác.

    III) PHÂN LOẠI NGHIỆP:

    Thông thường, nghiệp được tạo tác trện cơ sở của thân, khẩu và ý. Tất nhiên, cả ba nghiệp trên đều xuất phát từ ý hay còn gọi là tâm. Như thế, khi xét đến nghiệp của một von người là xét đến thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ngoài ba nghiệp này, không còn một cái nghiệp nào khác. Tuy nhiên, nghiệp có những tính chất và chức năng khác nhau nên chúng được phân làm nhiều loại và có nhiều tên gọi khác nhau.

    1) Phân loại 1 (theo tên gọi):

    Theo trình tự, trước hết, giáo lý về nghiệp được chia thành hai loại:

    a/ Nghiệp thiện: Tư duy và hành động về các điều lành như thực hành Ngũ giới và Thập thiện giới.

    b/ Nghiệp ác: Tư duy hành động về các điều lành như thực hành những điều trái ngược với Ngũ giới và Thập thiện giới.

    Từ hai loại nghiệp trên, chúng ta phải xét đến quá trình tạo tác, tư duy và hành động để hình thành nên nghiệp (thiện hay ác). Do đó, nếu xét về tiến trình của nghiệp (process of karma) thì nghiệp được chia thành hai loại nữa:

    * Nghiệp nhân: Những tư duy, hành động tạo nghiệp chưa đưa đến một kết quả.

    * Nghiệp quả: Những tư duy, hành động tạo tác sau một tiến trình đã tạo thành nghiệp, còn gọi là nghiệp quả hay nghiệp báo.

    Trong thực tế, khi nói đến nghiệp, hàng Phật tử thường chú trọng đến nghiệp báo (nghiệp quả) hơn là nghiệp nhân. Và đây là chỗ thiếu sót của chúng sanh khi đối diện với nghiệp. Và cũng chính điều này khiến cho chúng sanh quan tâm đến quả báo hơn là gieo nhân. Nghiệp quả hay nghiệp báo còn được gọi là quả dị thục (nghiệp đã chín muồi).

    2) Phân loại 2 (theo tiến trình):

    Xét theo tiến trình (từ nhân đến quả) của nghiệp thì có hai loại nghiệp cơ bản:

    a/ Định nghiệp: Là nghiệp được lưu chuyển trong thời gian ổn định và từ nhân đến quả thống nhất với nhau. Ví dụ, trứng gà sau khi được ấp trong một thời gian sẽ nở ra con gà. Nói chung, các nghiệp nhất định sẽ đưa đến kết quả (như ăn thì sẽ no) thì được gọi là định nghiệp.

    b/ Bất định nghiệp: Là nghiệp không dẫn đến kết quả, hoặc kết quả sẽ thành tựu trong thời gian bất định, hoặc có thể giữa kết quả và nguyên nhân không hoàn toàn thống nhất với nhau, thì được gọi là bất định nghiệp.

    3) Phân loại 3 (theo thời gian):

    Nếu căn cứ theo thời gian, chúng ta nhận ra hai loại nghiệp, một đã chín muồi và một đang và sẽ diễn tiến trong dòng nghiệp tạo tác:

    a/ Nghiệp cũ: Là nghiệp đã được tích lũy từ nhiều đời sống quá khứ, và hiện tại nó đã chín muồi. Chẳng hạn thân thể của ta (cao, thấp, mập, ốm, thông minh, ngu đần, hạnh phúc hay bất hạnh v. v...) ngày nay là do cái nghiệp đã được gieo từ trong vô thủy. Các nghiệp quả (y báo và chánh báo) của thân này là quả dị thục của các nghiệp từ vô thủy. Ngoài thân này, không hề có một cái nghiệp riêng lẻ, cũ xưa nào khác.

    b/ Nghiệp mới: Nếu như thân thể này là nghiệp cũ thì mọi tao tác đang làm và sẽ làm của ta ngày hôm nay là do các tạo tác trước đó. Và sự thành đạt của ngày mai như thế nào sẽ tùy thuộc vào tư duy và hành động của ngày hôm nay. Kinh Tương Ưng IV, Đức Phật dạy: "Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là nghiệp cũ. Các hành động của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý trong hiện tại là nghiệp mới".

    Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã chỉ rõ cái nghiệp cũ và mới của con người:

    "Sư rằng phúc họa đạo trời

    Cõi nguồn cũng ở lòng người mà ra

    Có trời mà cũng có ta

    Tu là cội phúc, tình là dây oan"

    Họa và phúc (thiện, ác) là đạo trời, nhưng cái đạo trời ấy cội nguồn của nó chính là ở tại lòng người (tâm, ý) mà sinh ra. Và trời ở đây là nghiệp cũ, còn ta chính là nghiệp mới.

    4) Phân loại (theo tính chất):

    Như đã trình bày, nghiệp báo là sự chín muồi (quả dị thục) của các nghiệp thuộc về bất thiện. Do đó, khi nói đến nghiệp báo (nghiệp quả) là nói đến tiến trình nhân - quả của nghiệp. theo giáo lý về nghiệp, một nhân không thể tạo thành một quả, mà phải có các duyên phụ trợ. Cho nên, nói đủ phải nói là nhân - duyên - quả. Duyên là các nhân phụ làm cho nhân chính thành quả; như nước, phân, đất, sự cần mẫn chăm bón của con người (là các duyên) làm cho hạt giống thành tựu nảy nở. Vì thế, khi tìm hiểu về quả dị thục (sự chín muồi) của nghiệp, ta phải tìm hiểu về 3 đặc tính sau:

    a/ Dị thời di thục: Thời gian chín muồi của nghiệp quả khác với thời gian tạo nghiệp (nghiệp nhân). Ví dụ như trái xoài, thời điểm khi sinh ra cho tới khi nó chín muồi là khác nhau (khác thời mà chín).

    b/ Dị loại nhi thục: Kết quả bị biến chất (dị loại) so với thời gian mới tạo nghiệp. Ví dụ, trái xoài khi nhỏ thì chua nhưng khi chín thì ngọt (biến chất rồi mới chín).

    c/ Biến di nhị thục: Kết quả bị biến thái và biến tướng (biến dị) so với thời gian mới tạo nghiệp. Ví dụ trái xoài non thì màu xanh, đến khi chín thì màu vàng.

    5) Phân lọai 5 (theo năng lực):

    Năng lực của nghiệp được hình thành theo từng loại nghiệp khác nhau trong một tiến trình tâm lý rồi đưa đến sự hình thành các đặc tính của nghiệp.

    a/ Tập quán nghiệp: Là nghiệp được huân tập bởi một thói quen trong đời sống hàng ngày. Có thể đó là thói quen thuộc tâm lý, hành vi, cách ứng xử v.v... Ví dụ, hút thuốc lá là một Tập quán nghiệp.

    b/ Tích lũy nghiệp: Là các nghiệp được tích lũy dần như rót nước vào thùng, có thể xem thân của ta như là một tích lũy nghiệp từ vô thủy.

    c/ Cực trọng nghiệp: Là các nghiệp gây ấn tượng xấu ác cực mạnh và sâu trong tâm lý của con người như phạm các tội ngũ nghịch (giết cha, mẹ (giết người) v.v..).

    d/ Cận tử nghiệp: là nghiệp lúc sắp chết hay những sức mạnh tâm lý của con người trước lúc tắt thở. Nghiệp này cực kỳ hệ trọng trong việc hướng dẫn nghiệp thức đi tái sinh. Những tư tưởng cuối cùng của người chết sẽ tạo nên một cận tử nghiệp (thiện hoặc bất thiện). Một người có thể suốt đời làm ác, nhưng trước lúc tắt thở, nỗ lực sinh khởi về thiện pháp, về những điều thiện trong đời, và nhờ ý lực đó có thể tái sinh vào cõi tốt đẹp (tương tự như vậy đối với các trường hợp ngược lại). Từ đó, qua những kinh nghiệm cận tử, chúng ta cần huân tập các thiện nghiệp trong đời sống của mình để tạo thành một sức mạnh (ý lự) đoạn trừ các ác nghiệp ngay trong đời sống hàng ngày và cả đến giờ phút lâm chung.

    6) Một số danh từ về nghiệp mà bạn cần biết

    - Bạch nghiệp (nghiệp trắng): các nghiệp thiện

    - Hắc nghiệp (nghiệp đen) các nghiệp ác

    - Phi hắc bạch nghiệp: các hành động duy tác (không thiện không ác)

    - Biệt nghiệp: nghiệp riêng của mỗi người

    - Cộng nghiệp: nghiệp chung của tập thể (gia đình)

    - Thánh nghiệp: nghiệp đưa đến thánh đạo

    - Duy tác nghiệp: nghiệp không có sanh y (không có quả)

    - Chướng nghiệp: nghiệp cản trở sự kết thành của quả

    - Đoạn nghiệp: nghiệp tiêu diệt các năng lực sanh nghiệp

    IV) THÁI ĐỘ TÂM LÝ TIẾP THỌ NGHIỆP:

    Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng trong giáo lý nghiệp báo. Vì mỗi người đều có cái nghiệp riêng do vô minh, ái thủ đã tạo nên, do đó đương nhiên phải đối diện với quả báo của mình. Sự trốn tránh nghiệp lực là điều vô ích. Cụ Nguyễn Du, trong Truyện Kiều đã nói rằng:

    "Đã mang lấy nghiệp vào thân

    Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa

    Thiện căn ở tại lòng ta

    Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"

    Vì thế, vấn đề quan trọng được đặt ra đối với người đang trên đường tu tập không phải là nghiệp mà chính là thái độ tâm lý tiếp thọ nghiệp. Kinh Nipata, Đức Phật dạy rằng: "Người đã tiêu diệt ải kiến, phá tan lớp tối tăm dày đặc trong tâm sẽ không còn thênh thanh đi mãi. Đối với người ấy, vấn đề nhân quả (nghiệp báo không còn nữa".

    Đoạn kinh trên cho ta thấy rằng tâm lý của người giải thoát sẽ hóa giải mọi nghiệp của chính họ,. Như một nhà sư vô cớ bị tù, ở trong tù mà lòng thì vô cùng bình an, không hề dao động; nghĩa là nhà sư ấy không còn bị nghiệp lực chi phối nữa. Chẳng hạn, cùng một hành động xảy ra đối với hai người nhưng thái độ thọ nhận hành động (nghiệp) thì hoàn toàn khác nhau như trường hợp "nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột". Do đó, đối với nghiệp, thái dộ tâm lý của người tiếp thọ thì quan trọng hơn là chính cái nghiệp ấy. Ngài Huyền Giác, trong Chứng đạo ca, bảo rằng: "Sát na diệt khước A Tỳ nghiệp", có nghĩa là khi đã giác ngộ thì mọi nghiệp chướng (nặng như A Tỳ) trong tích tắc cũng đều băng tiêu. Vì lý do này, nên trong kinh thường nói đến thọ nghiệp (chịu đựng nghiệp) và phi thọ nghiệp (không bị chi phối bởi nghiệp).

    * Kết luận:

    Đức Phật dạy rằng: "Không ai làm cho ta nhiễm ô, cũng không ai làm cho ta trong sạch; trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta làm cho ta trong sạch" (Dhp). Lời dạy trên đã mở ra con người một hướng đi rất chủ động trong việc tạo nên một đời sống an lạc giải thoát ngay tại cuộc đời này.

    CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP

    1/ Nghiệp là gì?

    2/ Có bao nhiêu loại nghiệp cơ bản?

    3/ Hãy trình bày cách phân loại nghiệp.

    4/ Hãy trình bày vai trò của thái độ tâm lý tiếp thọ nghiệp.

    ---o0o---