Nhân chuyến hành hương của Thầy và chư huynh về miền đất Phật, về với vương quốc Rồng Sấm Bhutan. Chúng tôi có sưu tập một ít tài liệu về miền đất Phật này từ nhiều nguồn khác nhau.. Mời các bạn cùng xem để có khái niệm chung trước khi cùng đoàn đi sâu tìm hiểu, đảnh lễ Phật, lễ Tổ, lễ chư vị Kim Cang Thượng Sư, giao lưu học hỏi, nhận điển quang gia trì luyện cộng tại các tu viện và mật thất của dòng truyền thừa Drukpa, dòng truyền thừa chính thức từ Tổ Sư Liên Hoa Sanh và cho đến nay vẫn còn giữ được bản sắc nguyên vẹn của Kim Cương Thừa Nguyên Thủy.

(Múa để cúng dường Thần 4 Đầu ở Thủ Đô Bangkok(Thái Lan) / Đêm 29/7/2010)

Bhutan

Từ Bhutan có thể xuất phát bởi từ 'Bhu-Utthan' trong tiếng Phạn có nghĩa "cao nguyên". Một giả thuyết khác cho rằng nó là sự Phạn hoá, từ Bhots-ant có nghĩa "nơi chấm dứt của Tây Tạng" hay "phía nam Tây Tạng". Tuy nhiên, một số người Bhutan gọi đất nước họ là Druk Yul (Vùng đất của Rồng Sấm), còn người dân là Drukpa. Bhutan ngày nay thỉnh thoảng được gọi là Shangri-La cuối cùng. Trong lịch sử, Bhutan được gọi bằng nhiều cái tên, như: Lho Mon (Vùng đất phía nam sự Bí mật), Lho Tsendenjong (Vùng đất phía nam Rừng đàn hương), Lhomen Khazhi (Vùng đất phía nam Bốn lối vào) và Lho Men Jong (Vùng đất phía nam cỏ thuốc).

Vương quốc Bhutan là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Nam Á, giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Toàn bộ nước này đều là đồi núi ngoại trừ một dải đồng bằng cận nhiệt đới nhỏ ở vũng viễn nam. Dải đồng bằng này bị phân cắt bởi các thung lũng được gọi là Duars. Độ cao tăng dần từ các đồng bằng cận nhiệt đới lên các đỉnh Himalaya băng tuyết vượt quá 7.000m. Vùng phía bắc gồm một vòng cung những đỉnh núi băng với khí hậu rất lạnh trên độ cao lớn. Đa số các đỉnh ở phía bắc cao hơn 7.000 m (23.000 feet) trên mực nước biển; đỉnh cao nhất được cho là Kula Kangri, 7.553 m (24.780 feet), nhưng những nghiên cứu chi tiết về địa hình cho thấy Gangkhar Puensum, hiện là núi cao nhất chưa được chinh phục trên thế giới, cao hơn ở mức 7.570 m (24.835 feet). Được những con sông tuyết cung cấp nước, các thung lũng trên núi tại vùng này mang lại các đồng cỏ chăn nuôi cho những người nông dân chăn thả du mục thưa thớt tại đây. Núi Đen tại miền trung Bhutan hình thành một đường phân thuỷ giữa hai hệ thống sông chính: Mo Chhu và Drangme Chhu. Các đỉnh Núi Đen ở độ cao trong khoảng 1500 m tới 2.700 m (4.900 feet và 8.900 feet) trên mực nước biển, và những con sông chảy nhanh đã đào thành những máng sâu tại những vùng núi thấp hơn. Những khu rừng vùng trung tâm cung cấp hầu hết các sản phẩm lâm nghiệp của Bhutan. Torsa, Raidak, Sankosh, và Manas là những con sông chính tại Bhutan, chảy xuyên qua vùng này. Đa số dân cư sống tại những cao nguyên trung tâm.

Ở phía nam, Đồi Shiwalik được bao phủ bởi những rừng cây sớm rụng (deciduous) dày đặc, các thung lũng đất bồi và núi non với độ cao lên tới 1.500 m (4.900 feet) trên mực nước biển. Những đồi thấp chân núi chạy xuống tới đồng bằng cận nhiệt đới Duars. Đa số đồng bằng Duars nằm trong lãnh thổ Ấn Độ, dù có một dải rộng 10-15 km (6-9 mile) kéo dài vào Bhutan. Đồng bằng Duars Bhutan được chia thành hai phần: bắc và nam Duars. Bắc Duars, tiếp giáp với những đồi thấp dưới chân Himalaya, là vùng đất gồ ghề, dốc và khô, đất xốp với nhiều loại động thực vật. Nam Duars có đất đai khá màu mỡ, những đồng cỏ savanna, rừng cây và những con suối. Những con sông từ trên núi, được cấp nước từ tuyết tan hay những cơn mưa gió mùa, dẫn nước vào sông Brahmaputra tại Ấn Độ. Dữ liệu do Bộ nông nghiệp đưa ra cho thấy tại thời điểm tháng 10 năm 2005 nước này có 64% diện tích rừng che phủ.

Nền kinh tế truyền thống của Bhutan dựa trên lâm nghiệp, chăn nuôi, và nông nghiệp, nhưng chúng chưa chiếm tới 50% tổng sản phẩm quốc nội hiện nay. Bởi Bhutan đã trở thành nước xuất khẩu thủy điện, cây trồng, du lịch. Hỗ trợ phát triển (chủ yếu từ Ấn Độ hiện cũng giữ vai trò quan trọng. Một cuộc điều tra dân số toàn quốc tiến hành tháng 4 năm 2006 cho thấy nước này có 672.425 người. Thimphu là thủ đô đồng thời là thành phố lớn nhất nước.

Bhutan là một trong những quốc gia cô lập nhất trên thế giới. Những ảnh hưởng nước ngoài và ngành du lịch bị nhà nước quản lý để bảo tồn nền văn hoá Phật giáo Tây Tạng truyền thống. Đa số người Bhutan hoặc học tại trường Phật giáo Tây Tạng Drukpa Kagyu hoặc trường Nyingmapa. Ngôn ngữ chính thức là Dzongkha (dịch nghĩa "ngôn ngữ của dzong"). Bhutan thường được miêu tả là nền văn hóa Phật giáo Himalaya truyền thống duy nhất còn sót lại.

Về lịch sử và văn hóa Bhutan có liên hệ với vùng láng giềng Tây Tạng phía bắc, tuy nhiên về chính trị và kinh tế hiện vương quốc này có quan hệ gần gũi hơn với Ấn Độ. Bhutan đã trở thành một chế độ quân chủ từ năm 1907. Các dzongkhag khác nhau đã được thống nhất dưới sự lãnh đạo của Trongsa Penlop. Vua Jigme Singye Wangchuck, người từng có một số động thái hướng tới một chính phủ lập hiến đã thoái vị vào ngày 14 tháng 10 năm 2006 và con trai ông, Jigme Khesar Namgyal Wangchuck, lên kế ngôi. Tới ngày 22 tháng 4 năm 2007, theo quyết định của hoàng gia, cuộc bầu cử nghị viện lần đầu tiên trong lịch sử đất nước được dự định tổ chức vào năm 2008.

Các dụng cụ đá, vũ khí và tàn tích của các công trình đá lớn cung cấp bằng chứng cho thấy Bhutan đã có người ở ngay từ năm 2000 trước Công Nguyên. Các nhà sử học đã đưa ra giả thuyết rằng nhà nước Lhomon (dịch nghĩa, "những vùng bóng tối phía nam"), hay Monyul ("Đất đen", một cái tên chỉ Monpa, những dân tộc thổ dân của Bhutan) có thể đã tồn tại trong giai đoạn năm 500 TCN và năm 600 TCN. Những cái tên Lhomon Tsendenjong (Đất nước Gỗ đàn hương), và Lhomon Khashi, hay Mon phía nam (đất nước của bốn lối vào) đã được tìm thấy trong biên niên sử Bhutan và Tây tạng cổ. Sự kiện sớm nhất được miêu tả trong văn tự tại Bhutan là cuộc viếng thăm của thánh Phật giáo Padmasambhava (cũng được gọi là Guru Rinpoche) ở thế kỷ thứ 8 TCN.

Lịch sử giai đoạn sớm của Bhutan không rõ ràng, bởi đa số các bản ghi chép đã bị phá hủy sau vụ hỏa hoạn tàn phá Punakha, thủ đô cũ năm 1827. Tới thế kỷ thứ 10, phát triển chính trị tại Bhutan bị ảnh hưởng nhiều bởi lịch sử tôn giáo của họ. Nhiều phụ nhánh Phật giáo xuất hiện và được bảo trợ bởi các lãnh chúa Mông Cổ cũng như Tây Tạng. Sau sự suy tàn của Mông Cổ ở thế kỷ 14, những phụ nhánh đó đã ganh đua với nhau để giành ưu thế tối cao trong chính trị cũng như tôn giáo, cuối cùng dẫn tới thắng lợi của phụ nhánh Drukpa ở thế kỷ 16. Cho tới thế kỷ 17, Bhutan tồn tại như một nhà nước chắp vá gồm các thái ấp nhỏ khi vùng này được vị lạt ma và là lãnh đạo quân sự Tây Tạng Shabdrung Ngawang Namgyal thống nhất. Để bảo vệ đất nước chống lại những cuộc cướp phá từng hồi của người Tây Tạng, Namgyal đã xây dựng một mạng lưới dzong (pháo đài) bất khả xâm phạm và truyền bá một bộ luật giúp đưa các lãnh chúa địa phương về dưới quyền quản lý trung ương. Nhiều dzong trong số đó vẫn còn tồn tại. Sau khi Namgyal qua đời năm 1651, Bhutan rơi vào tình trạng hỗn loạn. Lợi dụng tình hình này, người Tây Tạng tấn công Bhutan năm 1710, và một lần nữa năm 1730 với sự giúp đỡ của Mông Cổ. Cả hai cuộc tấn công đều bị đẩy lùi, và một hiệp ước đình chiến được ký kết năm 1759.

Trong thế kỷ 18, người Bhutan tấn công và chiếm đóng vương quốc Cooch Behar ở phía nam. Năm 1772, Cooch Behar kêu gọi Công ty Đông Ấn Anh giúp họ đẩy lùi người Bhutan, và sau này tấn công chính Bhutan năm 1774. Một hiệp ước hòa bình được ký kết, theo đó Bhutan đồng ý triệt thoái về các biên giới trước năm 1730. Tuy nhiên, hòa bình khá mong manh, và những vụ xô xát biên giới với người Anh vẫn tiếp tục trong một trăm năm sau đó. Cuối cùng những vụ xô xát dẫn tới cuộc Chiến tranh Duar (1864-1865), một cuộc xung đột để giải quyết vấn đề ai sẽ trở thành người quản lý Bengal Duars. Sau khi Bhutan thất bại, Hiệp ước Sinchula được ký kết giữa Ấn Độ thuộc Anh và Bhutan. Như một phần bồi thường chiến phí, Duars được nhường cho Anh Quốc để đổi lấy khoản thuê Rs. 50.000. Hiệp ước đã chấm dứt tình trạng thù địch giữa Ấn Độ thuộc Anh và Bhutan.

Trong thập niên 1870, những cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe nhóm đối thủ là Paro và Trongsa đã dẫn tới tình trạng nội chiến tại Bhutan, cuối cùng Ugyen Wangchuck nổi lên trở thành ponlop (thống đốc) Tongsa. Từ căn cứ quyền lực của mình tại miền trung Bhutan, Ugyen Wangchuck đánh bại các đối thủ chính trị và thống nhất đất nước sau nhiều cuộc nội chiến và nổi dậy trong giai đoạn 1882-1885.

Năm 1907, một năm mang tính kỷ nguyên với đất nước, Ugyen Wangchuck được một hội đồng các sư sãi Phật giáo, quan chức triều đình, và lãnh đạo các gia tộc lớn đồng lòng lựa chọn làm vị vua kế vị đất nước. Chính phủ Anh nhanh chóng công nhận nhà nước quân chủ mới, và vào năm 1910 Bhutan ký một hiệp ước dẫn tới việc Anh Quốc "hướng dẫn" quan hệ nước ngoài của Bhutan.

Sau khi Ấn Độ giành độc lập từ Anh Quốc ngày 15 tháng 8 năm 1947, Bhutan trở thành một trong những quốc gia đầu tiên công nhận nền độc lập của Ấn Độ. Sau khi người Anh rời khỏi vùng này, một hiệp ước tương tự như hiệp ước năm 1910 được ký kết ngày 8 tháng 8 năm 1949 với nước Ấn Độ mới thành lập.

Sau khi Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Tây Tạng năm 1951, Bhutan đã đóng cửa biên giới phía bắc và phát triển quan hệ song phương với Ấn Độ. Để giảm thiểu nguy cơ tiếp cận từ phía Trung Quốc, Bhutan tiến hành một chương trình hiện đại hóa được viện trợ nhiều từ phía Ấn Độ. Năm, Vua Jigme Dorji Wangchuck thành lập hệ thống nghị viện quốc gia - một Quốc hội 130 ghế - để tăng cương hơn nữa quá trình dân chủ. Năm 1965, ông thành lập một Hội đồng Tư vấn Hoàng gia, và vào năm 1968 thành lập Nội các. Năm 1971, Bhutan được chấp nhận vào Liên hiệp quốc, nước này đã có quy chế quan sát viên từ ba năm trước. Tháng 7 năm 1972, Jigme Singye Wangchuck lên nối ngôi khi 16 tuổi sau cái chết của cha. Năm 1998, Vua Jigme Singye Wangchuck đưa ra những cải cách chính trị đáng chú ý, chuyển hầu hết quyền lực của mình cho Thủ tướng và cho phép buộc tội nhà Vua khi có đa số hai phần ba từ phía Quốc hội. Cuối năm 2003, Quân đội Bhutan đã tiến hành thành công một chiến dịch quy mô lớn quét sạch những kẻ nội dậy chống Ấn Độ đang hoạt động trong những trại huấn luyện phía nam Bhutan.

Năm 1999, nhà vua cũng dỡ bỏ một lệnh cấm với vô tuyến truyền hình và Internet, khiến Bhutan là một trong những nước cuối cùng sử dụng vô tuyến. Trong bài phát biểu của mình, nhà vua nói rằng vô tuyến truyền hình là một bước quan trọng của chương trình hiện đại hoá Bhutan cũng như là một yếu tố quan trọng đóng góp vào Tổng Hạnh Phúc Quốc gia (Bhutan là nước duy nhất đo đếm hạnh phúc) nhưng đã cảnh báo chống lại việc sử dụng vô tuyến truyền hình vào những mục đích sai trái có thể làm phương hại tới các giá trị truyền thống của Bhutan.

Một hiến pháp mới đã được giới thiệu đầu năm 2005 nó sẽ được đưa ra phê chuẩn trong một cuộc trưng cầu dân ý trước khi có hiệu lực. Tháng 12 năm 2005, Jigme Singye Wangchuck đã thông báo rằng ông sẽ thoái vị nhường chỗ cho con trai vào năm 2008. Ngày 14 tháng 12 năm 2006, ông đã làm mọi người dân trong nước choáng váng khi thông báo mình sẽ thoái vị ngay lập tức.

Khí hậu Bhutan khác biệt theo vĩ độ, từ cận nhiệt đới ở phía nam tới ôn hoà trên các cao nguyên và khí hậu cực trên những đỉnh núi cao quanh năm tuyết phủ ở phía bắc. Bhutan có năm mùa riêng biệt: mùa hè, gió mùa, mùa thu, mùa đông và mùa xuân. Tây Bhutan có những cơn mưa gió mùa lớn nhất; nam Bhutan có mùa hè ẩm và mùa đông lạnh; vùng trung và đông Bhutan ôn hòa và khô hơn phía tây với mùa hè ấm và mùa đông lạnh.

Ngultrum là đồng tiền tệ Bhutan và giá trị của nó được giữ ổn định theo đồng rupee Ấn Độ. Dù kinh tế Bhutan là một trong những nền kinh tế nhỏ nhất thế giới, nó có tốc độ tăng trưởng rất nhanh chóng ở mức khoảng 8% năm 2005 và 14% năm 2006. Tới tháng 3 năm 2006, thu nhập trên đầu người của Bhutan đạt 1.321 dollar Mỹ, cao nhất tại Nam Á. Tiêu chuẩn sống tại Bhutan đang tăng dần và hiện cũng ở mức cao tại Nam Á.

Nền kinh tế nhỏ của Bhutan phụ thuộc vào nông nghiệp, lâm nghiệp, và việc bán thủy điện cho Ấn Độ. Nông nghiệp là phương tiện sinh sống của hơn 80% dân số. Hoạt động nông nghiệp chủ yếu là canh tác và chăn nuôi gia súc. Các sản phẩm thủ công, đặc biệt là sản phẩm dệt và các sản phẩm thủ công tôn giáo phục vụ việc thờ cúng trong gia đình là một ngành công nghiệp nhỏ và một nguồn thu nhập cho một số dân cư. Với sự đa dạng địa hình từ đồi núi cho tới những dãy núi gồ ghề khiến việc xây dựng đường xá, và các cơ sở hạ tầng khác, trở nên khó khăn và đắt đỏ. Điều này, và sự thiếu hụt đường tiếp cận ra biển, khiến Bhutan chưa bao giờ có thể thu lợi đúng mức từ việc buôn bán các sản phẩm do nó làm ra. Hiện tại Bhutan không có một hệ thống đường sắt, dù Indian Railways đang có kế hoạch nối miền nam Bhutan với mạng lưới đường sắt rộng lớn của nó theo một thỏa thuận được ký tháng 1 năm 2005. Những con đường thương mại lịch sử qua dãy núi cao Himalayas, nối Ấn Độ với Tây Tạng, đã bị đóng cửa từ năm 1959 khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Tây Tạng. Lĩnh vực công nghiệp còn nhỏ bé, sản phẩm làm ra theo kiểu công nghiệp gia đình. Đa số các dự án phát triển, như xây dựng đường xá, phụ thuộc vào nguồn nhân công thuê từ Ấn Độ. Sản phẩm nông nghiệp gồm gạo, ớt, các sản phẩm sữa, kiều mạch, lúa mạch, cây lấy rễ, táo và cam quýt cùng ngô ở những nơi có độ cao thấp. Các ngành công nghiệp gồm xi măng, gỗ, chế biến hoa quả, đồ uống có còn và calcium carbide.

Đồng tiền tệ Bhutan, đồng ngultrum, được ấn định tỷ giá theo đông Rupee Ấn Độ. Đồng rupee cũng được coi là đồng tiền tệ chính thức trong nước. Thu nhập từ Nu 100.000 mỗi năm sẽ bị đánh thuế, nhưng rất ít người đạt mức thu nhập này. Tỷ lệ lạm phát tại Bhutan được ước tính khoảng 3% năm 2003. Bhutan có Tổng sản phẩm quốc nội khoảng 2.913 tỷ USD (đã được quy đổi theo Sức mua tương đương), biến nó trở thành nền kinh tế đứng thứ 162 trên thế giới. Thu nhập trên đầu người khoảng 1.400 dollar (€1.170), xếp hạng 124. Tổng nguồn thu chính phủ đạt $146 triệu (€122 triệu), dù số chi lên tới $152 triệu (€127 triệu). Tuy nhiên, 60% chi tiêu ngân sách được Bộ ngoại giao Ấn Độ cung cấp. Xuất khẩu của Bhutan, chủ yếu là điện, bạch đậu khấu, thạch cao, gỗ, đồ thủ công, xi măng, hoa quả, đá quý và gia vị, tổng cộng $154 triệu (€128 triệu) (ước tính 2000). Tuy nhiên, nhập khẩu lên tới $196 triệu (€164 triệu), dẫn tới tình trạng thâm hụt thương mại. Các sản phẩm nhập khẩu chính gồm nhiên liệu và dầu nhờn, ngũ cốc, máy, xe cộ, sợi và gạo. Các đối tác thương mại chính của Bhutan là Ấn Độ, chiếm 87.9% hàng xuất khẩu. Bangladesh (4.6%) và Philippines (2%) cũng là hai đối tác xuất khẩu khác. Bởi biên giới với Tây Tạng đã bị đóng cửa, thương mại giữa Bhutan và Trung Quốc hiện không tồn tại. Các đối tác nhập khẩu của Bhutan gồm Ấn Độ (71.3%), Nhật Bản (7.8%) và Áo (3%). Đáp trả lời buộc tội năm 1987 của một nhà báo Anh Quốc trên tờ Financial Times rằng tốc độ phát triển tại Bhutan còn thấp, nhà Vua đã nói rằng "Tổng Hạnh phúc Quốc gia còn quan trọng hơn Tổng Sản phẩm Quốc nội". Lời tuyên bố này dường như đã đi trước những khám phá gần đây của các nhà tâm lý học kinh tế phương Tây, gồm cả người đoạt giải thưởng Nobel năm 2002 Daniel Kahneman, rằng vấn đề về sự liên quan giữa mức độ thu nhập và hạnh phúc. Nó cho thấy sự cam kết của nhà Vua trong việc xây dựng một nền kinh tế thích hợp cho nền văn hóa độc nhất của Bhutan, dựa trên các giá trị tinh thần Phật giáo, và là định hướng thống nhất cho nền kinh tế. Ngoài ra, chính sách dường như đã gặt hái được những kết quả mong muốn bởi trong một cuộc khảo sát gần đây do Đại học Leicester tại Anh Quốc tổ chức, Bhutan được xếp hạng là địa điểm hạnh phúc thứ 8 trên thế giới.

Phật giáo là quốc giáo và đóng vai trò quan trọng trong chính trị quốc gia. Chính trị Bhutan theo cơ cấu quân chủ chuyên chế đang phát triển trở thành một nền quân chủ lập hiến. Năm 1999, đức vua thứ 4 của Bhutan đã lập lên một cơ cấu mười thành viên gọi là Lhengye Zhungtshog (Hội đồng Bộ trưởng).

Vua Bhutan là lãnh đạo quốc gia. Quyền hành pháp thuộc hội đồng bộ trưởng. Quyền lập pháp thuộc cả chính phủ và Quốc hội. Hiện đất nước đang chuẩn bị cho một sửa đổi mang tích lịch sử khi nền dân chủ nghị viện đang được đặt kế hoạch trở thành hiện thực vào năm 2008, những công việc đang được tiến hành và các đảng chính trị được phép hoạt động. Quyền tư pháp thuộc tất cả các tòa án Bhutan. Chánh án là lãnh đạo hành chính của tư pháp.

Đồng tiền giấy Ngultrums hiện nay của Bhutan hiện đang được sửa đổi và loại tiền mới sẽ được phát triển thay thế loại cũ. Hiện tại, đồng một và năm Mgultrum đã được đưa ra. Những đồng tiền xu cũng được sử dụng nhiều tại Bhutan.

Vì các mục đích hành chính, Bhutan được chia thành bốn dzongdey (vùng hành chính). Mỗi dzongdey được chia tiếp thành dzongkhag (quận). Có 20 dzongkhag tại Bhutan. Các dzongkhag lớn được chia tiếp thành các đơn vị dưới quận được gọi là dungkhag. Ở mức độ căn bản, các nhóm làng hình thành lên một đơn vị cử tri được gọi là gewog và được quản lý bởi một gup, do dân bầu ra.

Quân đội Hoàng gia Bhutan là lực lượng quân đội Bhutan. Nó gồm Cận vệ Hoàng gia và Cảnh sát Hoàng gia Bhutan. Việc tham gia do tự nguyện, và tuổi tối thiểu để được tuyển mộ là 18. Số lượng quân thường trực khoảng 6.000 người và được Quân đội Ấn Độ huấn luyện. Lực lượng này có ngân sách hàng năm khoảng 13.7 triệu dollar - 1.8% GDP. Dù Hiệp ước năm 1949 với Ấn Độ vẫn thỉnh thoảng bị diễn giải sai mang nghĩa rằng Ấn Độ kiểm soát quan hệ ngoại giao của Bhutan, Bhutan ngày nay giữ quyền với mọi quan hệ ngoại giao của mình gồm cả vấn đề phân chia ranh giới nhạy cảm (với Ấn Độ) với Trung Quốc. Bhutan có quan hệ ngoại giao với 22 nước, gồm Liên minh Châu Âu, với phái bộ tại Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan và Kuwait. Nước này có hai phái bộ tại Liên hiệp quốc, một tại New York và một tại Geneva. Chỉ Ấn Độ và Bangladesh có Đại sứ quán tại Bhutan, còn Thái Lan có một văn phòng lãnh sự tại Bhutan.

Theo một hiệp ước đã có từ lâu, người Ấn Độ và Bhutan có thể đi lại sang nước kia không cần hộ chiếu hay visa mà chỉ cần chứng minh thư quốc gia của họ. Công dân Bhutan có thể làm việc tại Ấn Độ mà không gặp hạn chế pháp luật. Bhutan không có quan hệ ngoại giao chính thức với nước láng giềng phương bắc là Trung Quốc, dù những cuộc thăm viếng lẫn nhau ở nhiều mức độ đã gia tăng đáng kể trong thời gian gần đây. Thỏa thuận song phương đầu tiên giữa Trung Quốc và Bhutan đã được ký kết năm 1998, và Bhutan cũng đã thiết lập các lãnh sự quán tại Ma Cao và Hồng Kông. Biên giới của Bhutan với Trung Quốc phần lớn vẫn chưa được phân định và vì thế đang ở tình trạng tranh chấp tại một số địa điểm.

Nhóm sắc tộc đa số là người có tổ tiên Tây Tạng/Tạng-Miến; người Nepal di cư chiếm đa số ở vùng phía nam đất nước. Mật độ dân số, 45 người trên kilômét vuông (117/sq. mi), khiến Bhutan trở thành một trong những nước có mật đô dân số thưa thớt nhất Châu Á. Khoảng 20% dân số sống tại các vùng đô thị gồm các thị trấn nhỏ chủ yếu dọc theo thung lũng trung tâm và biên giới phía nam. Phần trăm số dân này đang gia tăng nhanh chóng bởi làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị đang tăng lên. Thành phố lớn nhất là thủ đô Thimphu, với dân số 50.000 người. Các vùng đô thị khác với số dân khá lớn gồm Paro và Phuentsholing. Trong số dân Bhutan, nhiều nhóm sắc tộc chính có thể được phân biệt với nhau. Nhóm chủ chốt là người Ngalop, một nhóm Phật giáo sinh sống ở phần phía tây đất nước. Văn hóa của họ rất tương đồng với văn hóa Tây Tạng. Người Sharchop ("người phía đông"), gắn liền với phần phía đông Bhutan (nhưng theo truyền thống theo Nyingmapa chứ không phải hình thức chính thức Drukpa Kagyu của Phật giáo Tây Tạng cũng có nhiều điểm tương đồng). Hai nhóm đó được gọi gộp chung là người Bhutan. 15% dân số còn lại là sắc tộc Nepal, đa số họ là tín đồ Hindu. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Dzongkha, một trong 53 ngôn ngữ trong hệ ngôn ngữ Hán-Tạng. Ký tự, ở đây được gọi là Chhokey ("Ngôn ngữ Đạt ma"), tương tự ký tự Tây Tạng. Chính phủ xếp hạng 19 ngôn ngữ liên quan tới các ngôn ngữ Tây Tạng là các thổ ngữ Dzongkha. Tiếng Lepcha được sử dụng ở nhiều vùng phía tây Bhutan; tiếng Tshangla, một ngôn ngữ gần với Dzongkha, được sử dụng nhiều ở các vùng phía đông. Tiếng Khengkha được dùng ở trung Bhutan. Ngôn ngữ Nepal được dùng nhiều ở phía nam. Tại các trường học tiếng Anh là ngôn ngữ trong giảng dạy và Dzongkha được dạy như một ngôn ngữ quốc gia. Dân tộc học liệt kê 24 ngôn ngữ hiện đang được sử dụng tại Bhutan, tất cả chúng đều thuộc ngữ nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến, ngoại trừ tiếng Nepal, thuộc nhóm Ấn-Aryan. Các ngôn ngữ tại Bhutan hiện vẫn chưa được mô tả kỹ lưỡng, bởi nhiều ngôn ngữ trong số đó vẫn chưa được nghiên cứu sâu về ngữ pháp hàn lâm. Tiếng Anh hiện cũng được coi là một ngôn ngữ chính thức. Tỷ lệ biết chữ chỉ là 42.2% (56.2% nam giới và 28.1% nữ). Người từ 14 tuổi trở xuống chiếm 39.1% dân số, trong khi người từ 15 tới 59 tuổi chiếm 56.9%, và người trên 60 tuổi chỉ chiếm 4%. Nước này có độ tuổi trung bình 20.4. Tuổi thọ bình quân tại Bhutan là 62.2 năm (61 cho nam giới và 64.5 cho nữ) theo dữ liệu gần đây nhất của Ngân hàng Thế giới. Có 1.070 nam trên 1.000 nữ trong nước.

Tuy người Bhutan được tự do đi du lịch nước ngoài, Bhutan bị coi là không thể xâm nhập với người nước ngoài. Nhận thức sai lầm của nhiều người cho rằng Bhutan đã đặt ra những hạn chế trong việc cấp visa du lịch, thuế du lịch ảo và yêu cầu khách phải đi theo tour được tổ chức dường như đã dẫn tới cảm giác này. Trang phục truyền thống cho đàn ông Ngalong và Sharchop là gho, một áo choàng dài tới đầu gối được buộc ngang eo bằng một dải thắt lưng được gọi là kera. Phụ nữ mặc trang phục dài tới mắt cá chân, kira, bị cắt cụt ở một bên vai và thắt ngang lưng. Một vật bổ sung cho kira là một áo choàng dài tay, được mặt bên trong lớp trang phục ngoài. Vị thế xã hội và cấp bậc sẽ quyết định kiểu dệt, màu sắc và trang trí của những đồ trang phục. Khăn quàng và khăn choàng cũng là những yếu tố cho thấy vị thế xã hội, bởi theo truyền thống Bhutan là một xã hội phong kiến. Phụ nữ có đeo khuyên tai. Một điều gây nhiều tranh cãi, luật pháp Bhutan hiện yêu cầu tất cả công dân nước mình đều phải mặc những y phục đó. Gạo, và ngô với vị trí ngày càng gia tăng, là những loại thực phẩm chính trong nước. Chế độ ăn ở vùng đồi giàu protein bởi người dân ở đây ăn nhiều thịt, chủ yếu là gia cầm, bò Tây Tạng và bò. Các món súp thịt, gạo và rau khô với gia vị là ớt và phó mát là món được ưa thích trong những mùa lạnh. Các thực phẩm chế biến từ sữa, đặc biệt là bơ và phó phát từ bò Tây Tạng và bò, cũng phổ biến, và vì thế hầu hết sữa đều được dành chế biến bơ và pho mát. Các đồ uống dân dã gồm trà bơ, chè, rượu gạo địa phương và bia. Bhutan là quốc gia duy nhất trên thế giới có lệnh cấm hút thuốc và bán thuốc lá.

Bắn cung là môn thể thao quốc gia của Bhutan và những cuộc thi được tổ chức thường xuyên. Môn thể thao quốc gia tại Bhutan là bắn cung, và những cuộc thi được tổ chức thường xuyên tại hầu hết các làng. Nó khác với các tiêu chuẩn Olympic không chỉ ở các chi tiết kỹ thuật như vị trí đặt bia và không khí. Có hai bia được đặt cách 100 mét và các đội bắt từ một phía sang phía kia. Mỗi thành viên trong đội bắn hai mũi mỗi vòng. Bắn cung truyền thống Bhutan là một sự kiện xã hội và những cuộc thi được tổ chức giữa các làng, thị trấn và các đội không chuyên. Thường có rất nhiều đồ ăn, uống cùng với hát hò nhảy múa từ phía những người vợ và cổ động viên dành cho các đấu thủ. Họ thường cố gắng làm giảm tập trung của đội bạn bằng cách đứng xung quanh bia và trêu chọc khả năng bắn của vận động viên. Phi tiêu (khuru) là một môn thể thao theo đội ngoài trời được nhiều người ưa thích, trong đó những mũi lao bằng gỗ nặng, đầu được đóng một cây đinh 10 phân được phóng vào bia giấy cách xa khoảng mười tới hai mươi mét. Một môn thể thao truyền thống khác là digor, có thể được miêu tả chính xác nhất như một shot put gộp với ném móng ngựa. Bóng đá là môn thể thao ngày càng được ưa chuộng. Năm 2002, đội bóng đá quốc gia Bhutan đã thi đấu với Montserrat - được quảng cáo là 'Trận chung kết khác', một trận đấu cùng ngày với trận chung kết giữa Brazil và Đức, nhưng Bhutan và Montserrat là hai đội bóng xếp hạng thấp nhất thế giới. Trận đấu được tổ chức tại Sân vận động Quốc gia Changlimithang tại Thimphu và Bhutan đã thắng với tỷ số 4-0. Một bộ phim tài liệu về trận đấu đã được nhà làm phim Hà Lan Johan Kramer tiến hành. Rigsar là kiểu âm nhạc đại chúng mới xuất hiện, được chơi bằng cả các nhạc cụ truyền thống và điện tử, và đã xuất hiện từ đầu thập niên 1990; nó có ảnh hưởng từ âm nhạc đại chúng Ấn Độ, một hình thức lai của các ảnh hưởng truyền thống và phương Tây. Các thể loại truyền thống gồm zhungdra và boedra. Chaam hay nhảy múa với mặt nạ là một hình thức nhảy múa thần bí được trình diễn trong những lễ hội Phật giáo.

Bhutan có nhiều ngày nghỉ lễ, đa số chúng tập trung quanh những lễ hội truyền thống theo mùa, thế tục và tôn giáo. Chúng gồm đông chí (khoảng 1 tháng 1, phụ thuộc theo lịch âm), Năm mới Âm lịch (tháng 2 hay tháng 3), sinh nhật Nhà vua và kỷ niệm ngày đăng quang, ngày bắt đầu chính thức của mùa gió mùa (22 tháng 9), Quốc khánh (17 tháng 12), và nhiều lễ hội Phật giáo và Hindu giáo. Thậm chí những ngày nghỉ lễ phi tôn giáo cũng có phụ thêm ý nghĩa tôn giáo, gồm những cuộc nhảy múa tôn giáo và cầu nguyện.

Nhảy múa với mặt nạ và những buổi diễn kịch là hình thức truyền thống tại những ngày lễ hội, thường đi cùng với âm nhạc truyền thống. Những vũ công khỏe mạnh, đeo những chiếc mặt nạ gỗ hay vật liệu khác nhiều màu sắc với kiểu trang phục riêng, thể hiện các anh hùng, ma quỷ, yêu ma, đầu người chết, thú vật, thần thánh, và biếm hoạ những nhân vật đời thường. Những vũ công được sự bảo trợ của hoàng gia và gìn giữ âm nhạc dân gian truyền thống cùng các trang phục tôn giáo và lưu giữ toàn bộ những hiểu biết và nghệ thuật chế tạo mặt nạ.

Bhutan chỉ có một tờ báo của chính phủ (Kuensel) và hai tờ báo khác mới xuất hiện gần đây, một đài truyền hình thuộc sở hữu nhà nước và nhiều đài phát thanh FM.

>>>>>>>

Thái Lan/Ngày 29/7/2010:

Đoàn quá cảnh ở sân bay Bangkok Thái lan. Ăn tối và nghỉ tại khách sạn Novotel gần sân bay BangKok, để 4 giờ 30 sáng mai lại bay tiếp sang Bhutan /29/7/2010

 

Sảnh khách sạn Novotel /29/7/2010

 

Ăn tối ở khách sạn Novotel BangKok-Thái Lan /29/7/2010

 

Ăn tối xong chúng tôi thuê xe vào thủ đô BangKok đảnh lễ tượng Thần 4 đầu nổi tiếng linh thiêng. Theo tục lệ Thái. Chúng tôi nhờ các cô vũ công ở đây, Múa Cúng Dường Thần / 29/7/2010

 

Tượng Thần 4 Đầu bằng vàng khối rất đẹp và rất linh thiêng / BangKok//Thái Lan/29/7/2010

 

Chúng tôi chụp hình lưu niệm trước khi về khách sạn /Bangkok /29/7/2010

 

Chào Thần 4 Đầu, chào Thủ Đô BangKok, ngày mai chúng tôi lại tiếp tục bay đến Vương Quốc "Rồng Sấm", vương quốc Bhutan, miền đất Phật linh thiêng ,nơi vẫn còn lưu lại truyền thừa của Tổ Sư Liên Hoa Sanh với dòng Kim Cương Thừa Drukpa /29/7/2010

>>>>>>

Đến Vương Quốc Rồng Sấm Bhutan / 30/7/2010:

Trên máy bay của Druk Air Bhutan /30/7/2010


 

Chúng tôi đã đến sân bay Paro của Vương Quốc Bhutan. Sân bay quốc tế Paro của Bhutan, rất đẹp và cổ kính. Tất cả nhân viên làm việc ở sân bay đều mặc quốc phục Bhutan. Họ đều hiền hậu, niềm nở, thân thiện và lịch sự /30/7/2010.

Ngài Lạt Ma Jigme Chosal  thị giả của Ngài Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rimpoche đời thứ IX đã ra tận sân bay để đón Thầy và chư huynh đi cùng./30/7/2010

Theo đúng chương trình. Do Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa XII, giáo chủ Giáo Hội tăng Già Bhutan, đang nhập thất. Nên 2 vị Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche IX và Thulsey Rinpoche II sẽ có những buổi làm việc, tiếp chuyện và ăn cơm thân mật với Thầy và đoàn tại tu viện nơi các ngài đang cư ngụ và tại Viện Đại Học Phật Giáo Tango, viện Phật Học lớn nhất của Bhutan. Hiện tại khi đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa XII nhập thất, thì 2 ngài Nhiếp Chính Vương sẽ thay ngài, nắm quyền điều khiển toàn bộ giáo hội và tăng già Bhutan.

(Ngài Lạt Ma Jigme Chosal  tiếp Thầy và đoàn /30/7/2010 )

  

 

Từ Paro về thủ đô Thimphu/ Bhutan 30/72010:

Hai bên đường cảnh đẹp như tranh vẽ. Không khí sạch và thơm mùi trắc bá diệp, mùi nhựa thông và tùng bách. Suối chảy róc rách, thác đổ ào ào. Dưới vực sâu, con sông Thimphu đang sục sôi tung bọt trắng. Người dân Bhutan hiền hòa, đôn hậu, nụ cười thân thiện luôn nở trên môi. Khi ra đường ai cũng mặc quốc phục trông rất lạ và rất đep. Khung cảnh êm đềm thơ mộng, chúng tôi thấy bình an và thoải mái như đang ở bên nhà. . . .

 



 

Cổng chào vào thủ đô Thimphu của vương quốc Bhutan /7/2010

 

Bục cảnh sát giao thông cũng vẽ hoa văn và trang trí theo kiểu Kim Cương Thừa. Phong cách kiến trúc và hoa văn Tây Tạng có mặt khắp mọi nơi ở thủ đô Thimphu/30/7/2010

 

Tại thủ đô Thimphu. Một nghi lễ cổ truyền của Kim Cương Thừa Bhutan đã được thực hiện để chào đón Thầy và Đoàn. Cầu phúc lạc và thành công, trong những ngày Thầy và chư huynh ở tại Bhutan /30/7/2010


 

Tham quan đãnh lễ Phật và luyện công ở Thủ Đô Thimphu/Bhutan / 30/7/2010:

Ngay trong chiều hôm ấy. Ngài Lạt Mạ Jigme Chosal, thị giả của ngài Nhiếp Chính Vương Khamtrul đã đưa Thầy và đoàn thăm quan các nơi ở thủ đô Thimphu: thăm các cảnh đẹp ở Thimphu, vào dâng hương đảnh lễ và luyện công tại các tu viện lớn và linh thiêng nhất ở Thimphu, như tu viện cổ thờ đức Thiên Thủ Thiên Nhãn, tu viện thờ Mẹ Tara Xanh . . .v.v. . .đi nhiễu quanh và cầu nguyện ở Mandala Ngủ Trí Như Lai lớn nhất tại thủ đô Thimphu. . .v.v. . .

Thimphu trông giống như Đà Lạt của mình. Nhưng to và đẹp hơn. Đối thấp, đồi cao nhấp nhô như sóng lượn. Rừng thông bạt ngàn, nhà cửa ít và đẹp, cổ kính và thường nép mình khiêm tốn trên sườn đồi, hay lẩn trong mây trên những đỉnh núi mù sương. Con sông Thimphu chảy ngang qua thành phố, nước sạch và trong, đá cuội trắng tinh. Môi trường ở đây được bảo vệ nghiêm ngặt. Không có cái cây nào bị chặt, không có con thú rừng, con cá, con chim nào bị giết. Bhutan là nước có luật cấm bán và cấm hút thuốc lá. Thức ăn mặn dành cho du khách đều được mua từ nước ngoài chở về. Chứ Bhutan không có sát sanh hại vật. Đi đến đâu tôi cũng thấy mọi người sống trong thanh bình, hiền hậu, chân thật. Nhìn nét mặt và cung cách họ sống, có lẽ họ đang rất hạnh phúc. . . .

Dù cho điều kiện vật chất của Bhutan còn nhiều hạn chế so với các nước Âu Mỹ. Nhưng lý tưởng sống theo phong cách Phật Giáo đã và đang có tác dụng tích cực đối với môi trường và con người ở nơi đây.

Thầy và đoàn được bố trí ăn nghỉ tại khách sạn Taj Tashi. Khách sạn cổ kính, đẹp và lớn nhất ở thủ đô Thimphu. Khách sạn kiến trúc và trang trí theo phong cách Kim Cường Thừa của Mật Giáo với tranh thanka, phù điêu chày kim cang, hoa văn cát tường và Rồng Sấm cùng nhiều nét đặc trưng khác. Buổi tối có biểu diễn văn nghệ Múa Hát truyền thống tại sảnh khách sạn để chào đón đoàn đã đến Bhutan.


(Một góc khách sạn Taj Tashi ở Thủ Đô Thimphu /Bhutan/30/7/2010)





 

Thầy và chư huynh xem biểu diễn văn nghệ truyền thống Bhutan /30/7/2010









>>>>>>>>

Ngài Lạt Ma Jigme Chosal đang đưa đoàn đi tham quan thủ đô Thimphu / Bhutan / 30/7/2010 :



Thầy và chư huynh thăm tu viện cổ kính nhất Thimphu. Nơi đây có thờ đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát./30/7/2010





Cảnh quan Thimphu nhìn từ trên dốc, lúc leo lên tu viện /30/7/2010





Muốn lên tu viện phải leo hết một cái dốc đá cao đi xuyên qua rừng thông già cổ thụ. Cảnh đẹp như tranh vẽ. Chẳng thấy bóng du khách. Chỉ có một vài người dân Bhutan đang cầu nguyện ở đây. Không khí sạch, mát và thơm mùi nhựa thông. Yên lặng và trang nghiêm, thanh tịnh và thiêng liêng. Bây giờ tôi mới biết tại sao Bhutan lại có chính sách hạn chế số lượng du khách, vì họ không muốn sự phát triển du lịch làm mất đi cái Thần vốn có từ ngàn xưa. của miền đất Phật /30/7/2010 





Cầu nguyện /Tu viện cổ ở Thimphu /30/7/2010



Trên sân tu viện cổ / Thimphu/30/7/2010




Cổng vào tu viện thờ Mẹ Tara Xanh / Thimphu /30/7/2010





Chánh điện của tu viện cổ thờ Thánh Mẫu Tara Xanh /Thimphu /Bhutan/30/7/2010





Trong tu viện có tượng cổ Mẹ Tara Xanh rất đẹp . Các nữ tu đang tụng chú với âm nhạc, trống, kèn , đàn , chập chỏa. . .v.v. . ./Thimphu/Bhutan/30/7/2010





Kỷ niệm trước chánh điện thờ Mẹ Tara Xanh /Bhutan/30/7/2010





Trên đường đi đến Mandala của Kim Cương Thừa lớn nhất ở thủ đô Thimphu. Chúng tôi dừng xe trên đỉnh đèo để chiêm ngưỡng vẽ đẹp của Hoàng Cung Bhutan giữa màu xanh ngút ngàn của thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ và đẹp tuyệt vời. 30/7/2010

Tòa Nhà Chính Phủ Bhutan




Nhà cửa, cung điện, con người với núi rừng và hoa, cùng với mây trời và sắc nước dòng sông Thimphu đã tự nhiên hòa hợp tạo thành bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và đẹp tuyệt vời.

Hoàng cung Bhutan /30/7/2010




Trên đường đi đến Mandala chính của Thimphu, chúng tôi ghé vào đảnh lễ Tổ Sư Liên Hoa Sanh ở phù điêu của ngài tạc trên vách núi. Bên cạnh bức phù điêu vĩ đại này có cái pháp luân chạy bằng sức nước. Dưới chân bức phù điêu có một cái giếng tiên nước mạch tuôn ra trong vắt uống rất mát. / Bhutan/30/7/2010



 

Chúng tôi tranh thủ rửa mặt mũi chân tay và uống mỗi người một ít nước thiêng để có sức tiếp tục cuộc hành trình trên Đất Phật / 30/7/2010





Trên Pháp Luân có khắc dòng chữ:Um Mani Padme Hum. Vì nước suối chảy khá mạnh nên làm pháp luân quay rất nhanh  /Bhutan/30/7/2010





Mandala lớn nhất của Thủ Đô Thimphu là một cái Tháp theo kiểu truyền thống của Kim Cương Thừa. Tầng dưới an vị Tứ Đại Thiên Vương ở 4 mặt. Tầng trên an vị Phật ở 4 hướng và ở chính giữa là đức Phật Tỳ Lô Giá Na hóa ra vô số Phật/ 30/7/2010





Đường vào Mandala Ngũ Trí Như Lai lớn nhất và nổi tiếng linh thiêng ở thủ đô Thimphu/ Bhutan /30/7/2010





Tượng Thánh Mẫu đứng trước Mandala chính của thủ đô Thimphu /30/7/2010





Ngài Lạt Ma Jigme Chosal cùng Thầy và chư huynh đi nhiễu quanh Tháp để cầu nguyện và thông công nhận điển quang gia trì theo phong cách của Kim Cương Thừa /30/7/2010





Hai ngài Nhiếp Chính vương của Bhutan tiếp thân mật và ăn cơm trưa cùng Thầy và chư huynh /30/7/2010:

Ngày 30/7/2010. Sau khi thăm Viện Đại Học Phật Giáo Tango, gặp gở vị Lạt Ma tái sinh và viện trưởng cũng như các giáo sư đang giảng dạy tại viện Phật Học Tango. Thầy và chư huynh đã đến mật thất của Ngài Nhiếp Chính Vương Thulsey Rinpoche II theo lời mời của Ngài để đàm đạo và ăn cơm trưa với Ngài tại Mật Thất. ở khuôn Viện Đại Học Phật Giáo Tango.

(Kỷ niệm tại Mật Thất của Ngài Nhiếp Chính Vương Thulsey Rinpoche II /30/7/2010)

 

Sáng hôm sau.1/8/2010. Ngài Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche IX cũng đã tiếp Thầy và chư huynh, dùng cơm trưa với Thầy và chư huynh tại Mật Thất của Ngài ở Paro. Cả 2 Ngài Nhiếp Chính Vương đều bày tỏ ý muốn được cộng tác với Thầy trong việc truyền bá Kim Cương Thừa dòng Drukpa ở Việt Nam / Bhutan/1/8/2010:



Các Ngài Nhiếp Chính Vương cũng đã cấp giấy giới thiệu để Thầy và chư huynh có thể vào luyện công ở tất cả các chùa, tu viện cổ, mật thất linh thiêng nhất ở Bhutan. Các Ngài cũng đã giới thiệu để Thầy và chư huynh tiếp xúc với các vị Lạt Ma tái sinh ở Bhutan. Tạo điều kiện để Thầy và chư huynh tham quan Viện Phật Học Tango , gặp gở các vị giáo sư đang giảng dạy ở đây để trao đổi về Phật học và các pháp ứng dụng của Kim Cương Thừa / 1/8/2010.

>>>>>>

Hương vị Thimphu /Bhutan /1/8/2010:

Thiền duyệt thực và pháp hỷ thực / .Bhutan/1/8/2010

 

Uống Trà giữa Thủ Đô Thimphu của Bhutan /30/7/2010

 

Pháp luân thường chuyển  / Thimphu /Bhutan /1/8/2010

 

Trai Tâm và trai thức ăn.  . . . Hề hề. . .Thức ăn chay của Bhutan rất ngon và tinh khiết. Tôi thích nhất là món Ớt Chiên Bơ vừa cay vừa ngon thơm. Trái cây tươi thì ở Bhutan vườn nhà ai cũng có sẵn. Khi ăn mới hái từ vườn đem vào như:Táo, đào, lê, xoài, chuối. . . v. .v. . .Đặc biệt, xoài Bhutan có vị thơm rất đặc trưng, là đặc sản nổi tiếng ở đây. Khi Thầy vừa tới Thủ Đô Thimphu của Bhutan, Ngài Nhiếp chính Vương Khamtrul Rinpoche IX đã nhờ cô thư ký của Giáo Hội Tăng Già Bhutan mang đến biếu Thầy và đoàn một túi giấy đầy xoài Bhutan, mọi người ai cũng thích.



Tâm sinh thì vạn pháp sinh
Tâm định pháp giới tự minh thường hằng

Nông dân đang bán ớt ở chợ cóc /Bhutan /30/7/2010




Cây đàn vô thủy vô chung
Không dây ta khãy nhạc say Long phùng. . . . . .hề hề. . . .                          / Đánh đàn chơi /Bhutan /30/7/2010

 

Từ Thimphu đi Paro/2/8/2010:

Tu viện cổ trên đường đi Paro /Bhutan/1/8/2010

 

Cầu treo của tu viện cổ bắc qua sông Thimphu /Bhutan /1/8/2010

 

Đứng trên cầu treo của tu viện. Trên đầu mây trắng bay, dưới chân dòng Thimphu đang ầm ào tung bọt trắng. Dòng sông như con rồng cuộn mình lao xuống phía bình nguyên xanh. Hai bên là vách núi cao vút và tu viện cổ nép mình vào đá yên lặng nhìn xuống dòng sông đang mải miết chảy, nhìn xuống cuộc đời đang ồn ào đấu tranh thị phi không phút nào ngừng / Về Paro/Bhutan/1/8/2010

 

Dòng Thimphu đang uốn mình qua thung lũng xanh /Trên đường đến Paro /Bhutan /1/8/2010

 

Một góc sân bay Paro nhìn từ trên đỉnh đèo /Bhutan/1/8/2010

 

Ở Paro đoàn được bố trí ăn nghỉ ở khách sạn Uma Paro nằm trên đỉnh một đồi thông bạt ngàn nhìn xuống dòng Thimphu đang êm đềm uốn lượn qua thung lũng xanh. Đây là khách sạn lớn nhất của Paro, thuận tiện cho việc tham quan luyện công của đoàn ở các đỉnh cao và trong các tu viện cổ linh thiêng của vương quốc "Rồng Sấm" /1/8/2010

 

Hương rừng thơm và cay cay. Chim hót líu lo trong nắng chiều vàng và trong suốt như mật ong rừng. Đứng ở bao lơn khách sạn Uma Paro chúng tôi nhìn bao quát cả một vùng núi non tuyệt đẹp, thung lũng,với ruộng bậc thang như sóng lượn nên thơ và bình an quá. Rừng thông xanh ngắt. Dòng Thimpu đang chảy ào ào qua đá núi.,Nhà cửa của người dân như những viên đá cuội trắng nổi bật giữa thảm cỏ xanh rờn và những tu viện cổ nhỏ xíu lấp ló trong mây trên sườn non và trên đỉnh những núi cao. . . .Ôi! Bhutan đẹp, thơ mộng và hiền hòa, đúng  là cảnh Bồng Lai nơi hạ giới. . . .! /1/8/2010

Cả đất nước Bhutan như một cái chùa lớn. Thoải mái và bình yên quá. Hạnh phúc mỉm cười khắp nơi, cho dù điều kiện vật chất vẫn còn hạn chế /30/7/2010

 

Đường phố Paro /Bhutan /1/8/2010

 

Những cô gái Bhutan mặc quốc phục đi trên đường phố/ Paro/Bhutan/1/8/2010

>>>>>>

Thăm Viện Phật Học Tango /Bhutan /1/8/2010

Thầy và chư huynh thăm Viện Đại Học Phật Giáo Cao Cấp Tango, nơi đào tạo ra các Đại Lạt Ma ở Bhutan. Thầy đã gặp gở giao lưu với Vị Lạt Ma tái sinh 14 tuổi hiện là người Quản Lý Viện Phật Học, Thầy cũng đã gặp gở các giáo sư đang giảng dạy ở Viện Phật Học này. Thầy và chư huynh đã luyện công tại ban Tam Thế Phật của học viện. Trước khi xuống núi Thầy và chư huynh cùng uống trà và chuyện trò thân mật với chư vị Lạt Ma của Viện Đại Học Phật Giáo Cao Cấp Tango. /1/8/2010

Thầy và chư huynh leo núi đến thăm Viện Phật Học Tango và đến thăm Ngài Nhiếp Chính Vương  Thulsey Rinpoche II tại mật thất của Ngài ở gần khuôn viên Viện Phật Học Tango /Bhutan/1/8/2010

 

Nghĩ chân giữa rừng già/ Đường lên Viện Phật Học Tango /1/8/2010

 

Đường lên núi để tới Viện Phật Học Tango, quanh co uốn khúc, xuyên qua khu rừng nguyên sinh đại ngàn và rừng thông cổ kính. Rêu xanh bám đầy đá già.. Dốc cao dựng đứng, vực thẳm âm u, đường rất khó đi 1/8/2010

 

Thầy và chư huynh  vào thăm Viện Phật Học Tango /30/7/2010

 

Chư Lạt Ma của Viện Phật Học Tango đón Thầy và chư huynh vào thăm /1/8/2010

Thầy và chư huynh luyện công ở Điện Thờ của Viện Phật Học Cao Cấp Tango. Viện Phật Học Tango có một pháp bảo phù điêu tạc bằng đá. Đó là Manda Ngũ Trí Như Lai đựng trong một cái hộp rất ít khi được mở ra. Ngay cả ngài Lạt Ma Jigme Chosal ở đây rất lâu rồi mà cũng chưa được tận mắt thấy Mandala này. Nay có nhân duyên Thầy đến, Viện Phật Học đã mở hộp để Thầy và chư huynh đảnh lễ thông công nhận điển quang gia trì của Mandala 1/8/2010





Đứng ở mật Thất của Ngài Nhiếp Chính Vương Thulsey Rinpoche II có thể thấy toàn bộ của các nơi nhập thất của chư vị Đại Lạt Ma sau khi đã tốt nghiệp ở Viện Phật Học Tango. Toàn bộ khu Thiền Viện nằm trong rừng cây đại ngàn nguyên sinh. Phía trước có con sông đang ào ào tung bọt trắng, chảy xuống thung lũng và bình nguyên bên dưới. Cảnh trí vô cùng thơ mộng và hùng vĩ. / 30/7/2010





Thầy và chư huynh uống Trà với chư Lạt Ma ở Viện Phật Học Tango /30/7/2010





Cổ kính và bình yên /Bhutan /1/8/2010





Gặp nhau bốn biển một nhà

Cũng là y hẹn Ta Bà ghé qua . . . Hề hề . . . ..Bhutan/1/8/2010




>>>>>>

Luyện công ở Tu viện Tiger's  Nest trên đỉnh núi Takshang linh thiêng/ 2/8/2010:


Xa xa nhìn qua ngọn rừng thông xanh mướt. Đỉnh Takshang mờ mịt khói mây /Bhutan /2/8/2010





Dấu chân người cũ còn đây
Hổ gầm năm ấy hóa Mây thăm chùa . . . . ./Núi Takshang/Bhutan/2/8/2010




Mịt mờ mây phủ non cao
Rồng thiêng hiển đạo mời vào Thiên Cung. . . . . . . ./Núi Takshang/Bhutan/2/8/2010




Vào núi chơi đi. . . .
Rồng đi hóa gió hóa Mây
Rồng về hóa tiếng thông gầy vi vu . . . . . /Núi Takshang /Bhutan /2/8/2010





Thiện Địa Nhân đồng nhất tại chỗ nầy / Núi Takshang /Bhutan /2/8/2010





Cưỡi ngựa leo núi cao
Vui nào hơn tùy hỷ . . . . . . .

Thăm Tu Viện Tiger's Nest trên đỉnh Takshang /Bhutan/2/8/2010





Nhắm đỉnh núi đầy mây
Theo bước chân Thầy mà tiến. .. . . .hề hề. . . ./Thăm tu viện Tiger's Nest trên đỉnh Takshang /Bhutan /2/8/2010











Núi Takshang khá cao. Đường lên tu viện Tiger's Nest quanh co xuyên qua rừng nguyên sinh đại ngàn hùng vĩ, dốc dựng đứng bên bờ vực thẳm. Một số chư huynh cởi ngựa leo núi để hưởng cảm giác mạnh. Một số theo Thầy và ngài Lạt Ma Jigme Chosal đi bộ leo dốc để có thể cầu nguyện tại các điểm linh thiêng trên đường đi /2/8/2010

Ngựa đang chờ để chở khách hành hương lên tu viện Tiger' s Nest /30/7/2010





Đi ngựa xuyên qua rừng già hùng vĩ, con đường men theo bờ vực sâu thẳm. Chim kêu vượn hú, gió đại ngàn xào xạc, hoa rừng nở thắm khắp nơi.Hương bay sực nức. Rêu, địa y, tầm gửi và những sợi rêu xanh rất dài rũ xuống từ các cây địa thụ phất phơ trong gió lạnh. Trông như rừng thiêng đang múa điệu múa của Thần Linh để đòn chào đoàn khách quí. Ngài Lạt Ma Jigme Chosal cho biết, tại những vùng lạnh và thiếu Oxy do độ cao thì mới có loại rêu xanh đặc biệt này. Cảnh trí rừng Takshang hoang dại, nguyên sơ, hùng vĩ nhưng không hung dữ mà thơ mộng và bình an quá.





Tiến lên     /Thăm tu viện Tiger/s Nest trên đỉnh Takshang /Bhutan /2/8/2010





Rong chơi gió đến núi nầy
Rồng Mây gặp hội, bồi hồi tam thiên . . . . . ./Thăm tu viện Tiger's Nest





Thần chú viết trên đá /Thăm tu viện Tiger's Nest /Bhutan /2/8/2010





Điện thờ Thần Linh nằm bên bờ suối vắng /Thăm tu viện Tiger's Nest /Bhutan/ 2/8/2010




Miếu thờ trong rừng vắng
Đang chờ cơn gió đời lẳng lặng tới thăm / Tiger's Nest /Bhutan /2/8/2010







Cầu bắc qua suối /Tiger/s Nest /Bhutan/2/8/2010




Suối chảy trong rừng vắng




Thác tuôn bên đường đi




Tu Viện Tiger's Nest đứng trên một vách đá già khổng lồ cao ngất trời xanh và sát bờ vực sâu hun hút. Bên trái có một thác nước hùng vĩ từ tít trên mây xanh, ngày đêm đổ xuống ào ào . Một cây cầu bắc qua dòng suối nước sùi bọt trắng. Tùng, bách, thông, cây đại thụ, hoa rừng, chim chóc và thú hoang cùng người tu quyện làm một, thân thiện, chân thật và nguyên sơ đến lạ lùng. . .Ôi! Tiger's Nest . . .hãy để con tim yêu thương này tự nhiên đồng cảm. Còn làm sao mà biết được cái diệu kỳ, cái lặng yên mà tràn đầy rung động ở nơi đây.









Toàn cảnh Tu Viện cổ Tiger's Nest, nơi nổi tiếng linh thiêng nhất ở vương quốc Rồng Sấm Bhutan /2/8/2010




Trên đường leo lên đỉnh Takshang, Thầy và ngài Lạt Ma Jigme Chosal dừng lại uống Trà ở cái quán nằm sát bên bờ vực sâu hun hút.
Gió ngàn lồng lộng. Thác chảy ào ào mơ hồ khi thực khi hư. Nhâm nhi ly trà nóng ngắm cảnh mây trời quấn quít tu viện Tiger's Nest, trong lòng thấy rộn lên biết bao niềm cảm xúc thiêng liêng. Thần linh như đang mỉm cười đứng quanh đây. Tổ Sư Liên Hoa Sanh như đang ngồi Thiền trên đỉnh Takshang. kia. Và Ngài như giơ tay vẩy chào đàn con từ nơi đất Việt xa xôi, nay đang tìm về chốn Tổ./ Bhutan/2/8/2010


Uống Trà đi. . . .Uống Trà đi
Đời người có được mấy khi
Gió ngàn lồng lộng, mây đi Rồng về. . . .Hề hề. . .





Tu viện Tiger's Nest đứng trên bờ vực sâu thẳm





Thầy và chư huynh đã cùng  Ngài Lạt Ma  Jigme Chosal thị giả của Ngài Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche IX leo lên đỉnh Tak.shang đảnh lễ Phật, lễ Tổ sư Liên Hoa Sanh ở tu viện Tiger's Nest.  Đây là nơi xưa kia Tổ Sư Liên Hoa Sanh đã được con Hổ Thần cõng lên đỉnh núi vào hang động tu luyện và lập ra tu viện Tiger's Nest này. Đây là tu viện nổi tiếng linh thiêng và cổ nhất ở Bhutan. 2/8/2010.

 

Thầy thông công nhận điển quang gia trì luyện công trên đỉnh núi thiêng Takshang, phía sau Thầy là Tu Viện linh thiêng Tiger's  Nest. Tu Viện Tiger's  Nest có Hang Tổ Sư rất linh thiêng. Đây là nơi xưa kia Tổ Sư Liên Hoa Sanh đã ngồi thiền và luyện công . Hang này không mở cửa cho khách hành hương. Nhưng có ý chỉ của Ngài Nhiếp Chính Vương Khamtrul  IX và do ngài Lạt Ma Jigme Chosal truyền đạt, nên nó đã được mở ra để Thầy và chư huynh vào trong đảnh lễ Phật, lễ Tổ và thông công nhận điển quang gia trì luyện công với sự chứng kiến của chư vị Lạt Ma ở đây. 2/8/2010

 

Trước khi đến Tu Viện Tiger's Net phải qua một thác nước hùng vĩ. Thác từ trên đỉnh núi cao đổ xuồng ào ào tạo thành con suối lớn chảy xuyên qua khu rừng già âm u. Chúng tôi lội xuống suối nước lạnh ngắt, rửa mặt mũi, chân tay, trước khi vào chùa lễ Phật, lễ Tổ và luyện công trên đỉnh non thiêng, nơi xưa kia Tổ Sư Liên Hoa Sanh đã ngồi ở đây, trong động đá này tu luyện. . . ./2/8/2010

 

Trời cười, đất cười, núi cười, chim muông và thú rừng cười, thác nước cười, rừng cây và mây trời cũng cười.

Phật cười, Tổ cười, Thần Linh và Ma Quỷ cười. . . .nên ta bổng tự nhiên cười. . . ha ha. . . .ha. . .h. . .a. . .a. . .a. . .a. . .

Đang lúc ấy tự nhiên ta chợt thấy Lão Già Râu Mép Vểnh ngồi ở bực cửa tu viện Tiger's Nest nhìn ta cười rất hề :

-  Này, Đời là một trận cười dài

Mồm ta tự nhiên nói:

-  Còn Đúng Sai là cái Hai của Đạo. . . .hề hề. . . .

Lão Già cười ha ha. . .ta cũng cười ha ha. . . .

Lão Vểnh Râu rũ ta chui vào vách đá già.

Ta lấy rêu chế trà, còn lão phì phà điều thuốc ma, rê và quấn bằng mây trời lạc qua của động. . . .ha ha. . .ha. . .

Cọp ơi, khỉ ơi, rắn ơi, gấu ơi, chim chóc và Thần Linh Ma Quỉ hãy đến đây uống trà cùng với ta và Lão Già Râu Vểnh. . . .hề hề. . .

./Tu viện Tiger's Nest/Bhutan/2/8/2010/2/8/2010

>>>>>>>

Phong cảnh núi Takshang /Bhutan /2/8/2010










>>>>>>>